(Chuyện dựa theo lời kể của ông đại úy thương binh Việt Cộng Nguyễn Văn Hiền tự là Hai Hiền và những gì QBT [tác giả] biết về bà)
Bà là một thiếu nữ mộc mạc hiền lành sinh ra ở một thôn hẻo lánh vùng sâu ở đồng bằng sông Cửu Long. Năm bà vừa tròn 16 cái xuân xanh mơn mởn thì trong một đợt du kích cộng sản đột nhập vào làng họ đã cưỡng chế bà đi theo.
Vào bưng một thời gian thì bà đem lòng yêu một anh du kích địa phương. Nhưng đảng bộ địa phương không đồng ý nên buộc họ phải tự kiểm điểm rồi phái anh du kích tham gia đội ám sát. Anh bị rơi vào ổ mìn trong một đợt đột nhập vào làng không lâu sau và chết không toàn thây.
Sau đó không lâu bà trở thành tình nhân của ông bí thư chi bộ xã. Thật không may bà cấn thai ở tuổi 17. Hay tin gia đình bà vô bưng đưa bà về nhà dưỡng thai. Biết tin bà về nhà an ninh VNCH liền đến nhà bà điều tra. Nhưng khi thấy bà mang thai họ chỉ ghi lại lời kể bà bị cưỡng chế đi vô bưng rồi ra về. Gia đình bà quá lo lắng nên đưa bà lên Sài Gòn định trốn luôn trên đó không về nữa. Nhưng trong rừng nhắn tin ra rằng nếu bà không về là phản bội và ba của bà sẽ phải đền tội thay con. Chuyện chặt đầu, quăng lưu đạn ở đây xẩy ra như cơm bữa nên gia đình bà quá sợ hãi phải đưa bà về quê lại.
Sau khi sinh con được ba tháng , bà để con trai của mình lại cho ông bà ngoại nuôi và quay về rừng tiếp tục làm nhân tình cho ông bí thư chi bộ. Năm tháng trôi qua trong một lần đi công tác ở vùng Long Khánh bà gặp ông Nguyễn Văn Hiền là một sĩ quan Bắc Việt trẻ vô nam , họ đem lòng yêu nhau. Lợi dụng cơ hội đó bà xin chuyển đơn vị và thoát khỏi bàn tay ông bí thư dâm tặc. Rồi đơn vị giúp họ làm lễ cưới. Ngày cưới không có gì ngoài một cái chảo thật to với hai cân gạo và một đống rau rừng nấu cháo rồi cả đơn vị chia nhau húp. Nhưng đó là ngày bà thật sự thấy hạnh phúc đến rơi nước mắt.
Nhưng chỉ một năm sau ông bị thương mất 1 con mắt và mang sẹo đầy người. Hai vợ chồng được chuyển về đơn vị sản xuất trong vùng an toàn thuộc chiến khu Xuyên Mộc và sống ở đó cho đến tháng 4 năm 75.
Sau 75 bà và ông dẫn nhau về Bắc, nhưng cuộc sống khó khăn quá hai vợ chồng họ dẫn nhau vào Nam , quay về Xuyên Mộc. Tại đây họ xin UB huyện cấp cho một miếng đất khá lớn bên bờ sông Ray để khai khẩn lập nghiệp. Trên ngọn đồi nhỏ bên bờ sông họ dùng cây rừng sẵn quanh đây dựng nên một căn nhà gỗ lợp tranh nho nhỏ khá xinh xắn.
Năm 1986 QBT tôi chính là quen vợ chồng họ tại ngôi nhà tranh này trong một lần cùng 2 người anh bà con đi săn ở đây. Năm 1986 khi QBT đặt chân đến thì vùng này là khu rừng rậm nhiệt đới gió mùa với những cây bằng lăng, cây sao, cây cám , gỏ mật....khổng lồ che kín bầu trời. Bên dưới là tre, mây, cây sống lá với tàng lá to như cái nhà. Dưới suối ban đêm tôm bò đầy hết.
Năm 2002 QBT từ Hoa Kỳ về đây thăm lại chốn xưa thì thấy tất cả chỉ còn là sa mạc. Con sông Ray nước cạn chỉ còn là con lạch nhỏ xíu. Tại góc rừng thơ mộng này đôi vợ chồng thương binh không con này sống khá hạnh phúc đến năm 97 thì ông qua đời sau nhiều năm sốt rét ác tính hành hạ. Bà giao đất đai lại cho người em trông coi rồi quay về quê sống, con trai bà bây giờ đã là một chiến sĩ côn an.
Đến năm 2002 bà bị ung thư , biết mình sẽ không còn sống bao lâu bà quay về ngôi nhà xưa bên bờ sông Ray. Bây giờ đất đai lên giá nên vùng đất rộng lớn của ông bà năm xưa bây giờ là cả một gia tài.
Bà gọi con trai về và nói :"Thôi con đừng làm côn an nữa. Con hãy xin ra khỏi ngành rồi về đây. Má chết rồi tất cả là của con. Ba má đã sống một đời thanh sạch làm ra cơ nghiệp này nhờ mồ hôi và máu của mình. Con đừng làm côn an nữa ".
Nhưng anh trả lời tỉnh bơ :"Ông Hai Hiền không phải ba tui. Má chết đương nhiên tài sản này để lại cho tui mà. Nhưng má chết thì chết đi chứ đừng cản đường công danh của tui ".
Bà lặng lẽ quay mặt vô tường nghẹn ngào :"THẰNG CHÓ ĐẺ ".
Bà qua đời chỉ 1 tháng sau đó.
Di chúc bà để toàn bộ tài sản lại cho em trai. Thằng chó đẻ bây giờ đã là bí thư của một huyện thuộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.