Tháng Tư đổi đời là hình ảnh trần truồng phơi bày những gì từ ngày dép râu đạp đất Sài gòn, không chỉ cho mỗi dân Việt nhìn mà còn là trong mắt quốc tế, hơn bốn mươi năm của đảng An Nam cộng, vỗ ngực xưng kẻ chiến thắng để rồi trần trụi lộ hẵn bộ mặt thật qua những gì gọi là đổi đời của chính nó. Và dân Việt, tháng Tư đổi đời cũng là hình ảnh lõa lồ của những cô gái trong nước, lột truồng trước mắt đàn ông xứ người săm soi chọn mua, và là những người dân Viêt bung ra tứ xứ bán trôn, bán sức để có cái ăn.
Đó là Bắc cộng kẻ chiến thắng, và người dân Việt, còn QL.VNCH bên thua cuộc, họ có một tháng Tư cuối mà cả người ngoại nói về tháng Tư này, họ đã gọi nó là ‘Tháng Tư Đen’ (Black April), chuyện phải nói tuần này là những sự thật ẩn đằng sau cái tháng Tư đen đó. Trong khuôn khổ một bài viết ngắn, thì những chuyện phải nói có thể nó chỉ là những mảnh vụn, tuy nhiên những mảnh vụn này sẽ giúp cho những ai muốn tìm sự thật, sẽ không còn bị những hào quang giả tạo tô vẽ của bên thắng cuộc làm chóa mắt.
Cả một cái bộ máy tuyên truyền độc quyền nói của đảng An Nam cộng, đã ồn ào về một kết thúc ‘cực kỳ hoành tráng’ nhưng sự thật đã không là vậy, nhất là bây giờ thời buổi thông tin toàn cầu, cùng những bạch hóa ngày càng nhiều về một cuộc chiến (VN War) đẫm máu xương dân Việt cho thấy những chuyện phải nói, cần phải nói nhiều hơn nữa, xin đừng cho đây là công việc bơi đống tro tàn, và cũng cũng đừng chối bỏ những cái thật của quá khứ, tuy không thay đổi được cục diện của những ngày tháng đó, nhưng là để trả lại sự thật cho lịch sử!
Cho tới bây giờ với thời gian dài hơn bốn mươi năm, có gì mà giấu mãi được, cây kim trong bọc lâu ngày đã lòi ra, mọi chuyện phơi bày không khác gì lột trần sự việc, lại thêm người Mỹ đã bạch hóa những ẩn khuất sau 30 năm như thông lệ, đó là cái làm cho người ta tin những gì của lịch sử phải luôn là sự thật. Chắc chắn sẽ đánh bạt những câu chuyện huyền thoại mù mờ, của Ba Đình như viết chuyện bác đi tìm đường kíu cuốc, hay sử đảng anh hùng quyện đầy khói bếp cùng mồ hóng… Lịch sử sẽ trả lại công đạo cho những gì chính danh, chính nghĩa!
30/04/1975 Sàigòn thất thủ, có người nói nó đồng nghĩa với chuyện nhà nước VNCH, mãi mãi bị chôn vùi sâu dưới ba thước đất, sẽ không ai còn nhớ đến một chính thể đã từng tồn tại 21 năm, một thể chế mà người dân miền Nam đổ bao xương máu cho sự sống còn của nó. Tháng Tư Đen ập đến như người ta đã thấy, là ngày những trại lao cải, được Bắc cộng mở ra khắp nơi, để giam giữ bách hại hàng trăm ngàn Quân nhân Cán chính VNCH, đồng thời đốt sạch, xóa sạch những gì thuộc về chế độ cũ, Bắc cộng rập khuôn theo chính sách đường lối Nga Tầu.
Để có được cái hào quang là kẻ chiến thắng, mà phía Hà Nội đã ra sức tuyên truyền nói xấu hạ nhục QL.VNCH, chuyện đó ngày nay thiết nghĩ chính nhà nước An Nam xã nghĩa cũng đã thấy họ thất bại. Hình ảnh người lính cũ miền Nam vẫn luôn hằn vết sâu đậm, trong trái tim người dân miền Nam. Câu chuyện tuần này ‘tháng Tư đen’ là để nói về họ, những người lính QL.VNCH, trong đó có những gì George J.Veith đã viết trong: Tháng Tư Đen (Black April). George J.Veith cho người đọc thấy cái thật chiến thắng của cộng quân!
Mở đầu tháng Tư cuối, đánh dấu ngày Nha Trang mất 31/03/1975, có nghĩa là từ những ngày cuối tháng 03/1975 những mất dần lãnh thổ của Quân Khu I và hầu hết của Quân Khu II, ngày tháng đó từng đoàn người từ phía bắc Huế, Đà nẵng, hay miền cao Kontum, Pleiku đã xuôi Nam. Nếu gọi đó là người dân miền Nam đã bỏ phiếu bằng chân, khi những đoàn quân Bắc cộng tràn xuống, thì người lính QL.VNCH, các đài truyền thông BBC, VOA, liên tục cay độc đưa tin bằng những từ lui binh triệt thoái, để nói đến chuyện tái phối trí tại Quân Đoàn II.
Từ sau tháng giêng 1973 ký kết Hiệp Định Paris, QL.VNCH lâm vào tình thế vô cùng khó khăn và thiếu thốn trong chiến đấu, đã có người gọi đây là chiến đấu chống cộng theo kiểu con nhà nghèo, nói vậy nhưng lại đúng vô cùng. Đã phải tiết kiệm từng viên đạn từng lít xăng, trong cam go và đơn độc nhưng họ vẫn chiến đấu cho sự sống còn của chính mình, và không phải vì thế mà kém phần kiên cường, ngược lại dũng cảm hơn bao giờ hết, 1973, 1974, và vào những giờ phút cuối 1975, những người lính Cộng Hòa đã cho thấy cái kiên cường của họ.
Một thực tế phải thấy rằng VNCH, chỉ có thể đương đầu với cả khối cộng sản, khi có sự hỗ trợ của Mỹ và Đồng Minh, nhưng một khi liên minh chống cộng này không còn, thì người dân miền Nam không thể đơn độc chống lại quân Bắc cộng với sự hỗ trợ của Nga và Tầu. Miền Nam đã sụp đổ khi khoản viện trợ khẩn cấp trị giá 722 triệu usd mà chính phủ Gerald Ford đề nghị đã bị thượng viện Hoa Kỳ từ chối vào ngày 17/04/1975, sau khi liên tục cắt giảm viện trợ từ 2,1 tỷ cho của 1973, còn 1,4 tỷ cho năm 1974, và cuối cùng là từ chối cho 1975.
Black April của George J.Veith đã đưa ra nhận xét về thất bại của miền Nam trong tháng Tư năm 1975: “Đó là không phải do sự lúng túng của chính quyền VNCH, và càng không phải do sự yếu kém trên chiến trường của chiến sĩ QL.VNCH. Như trên ta đã biết VNCH đã lần lượt trong ba năm từ 1973-1975, bị cắt giảm viện trợ xuống dần chỉ còn 1/3… nguyên nhân gốc rễ đưa đến thất bại của miền Nam Việt Nam chính từ chuyện Quốc hội Hoa Kỳ đã cắt giảm viện trợ”. Đây là đòn trói tay bức tử QL.VNCH đi đến chổ không thể tạo được đủ vị thế về quân sự.
Theo George J.Veith, với nguyên nhân nêu trên đã đưa đến thất bại của miền Nam Việt Nam, sự thiếu hụt nhiên liệu máy bay và phụ tùng, không cho phép không quân chuyển vận binh sĩ, đến để giữ vững phòng tuyến biên giới phía Tây dài gần 1500 km. Đã tạo điều kiện cho quân Bắc cộng tự do tập trung, dễ dàng điều động được một lực lượng lớn để mở các cuộc tấn công vào các thị xã thành phố chính yếu. Sự thiếu hụt không quân đã làm cho VNCH bị hạn chế rất nhiều, trong không tập quân CSBV ngay cả khi biết nơi chúng tập trung!
Trong khi đó Quốc hội Hoa Kỳ đã đồng thời dùng một nghị quyết đã được thông qua năm 1973 là “War Power Act” để buộc Tổng thống Gerald Ford không được ném bom miền Bắc!!! Nguyên nhân đưa đến cắt hẳn viện trợ để bức tử QL.VNCH, đã được sáng tõ và mọi người được biết đến, sau khi cuộc đàm thoại giữa Kissinger và Chu Ân Lai về cuộc chiến VN được bạch hóa, công bố những thỏa thuận giữa Tầu cộng và Mỹ bán đứng VNCH, mà ngay cả csBV cũng không được biết (http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB193/HAK%206-20-72.pdf).
Nếu trong cuộc đàm thoại ngày 29/07/1971 trước Chu Ân Lai thủ tướng Tầu cộng, Ngoại trưởng Mỹ H.Kissinger nói: “Tôi xin cam đoan với ông rằng chúng tôi muốn chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam qua đàm phán, và chúng tôi sẵn lòng chuẩn bị định ngày giờ cho việc rút hết tất cả lực lượng quân sự của chúng tôi ra khỏi Việt Nam và Đông Dương như ông đã đề nghị trước đây”. Và dứt khoát lực lượng quân sự Mỹ sẽ không còn hiện hữu tại Đông Dương, Kissinger đã khẳng định với Chu Ân Lai (http://www2.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB145/09.pdf):
“Chúng tôi không phải là trẻ con, và lịch sử sẽ không đứng lại ngày khế ước hòa bình được ký. Nếu quân địa phương lại tái xuất, và không được giúp bởi những quân lực bên ngoài, chúng tôi chắc không sẽ trở lại từ 10.000 dặm xa xôi. Chúng tôi không đề nghị hiệp ước để ngừng lịch sử…” Thì cuộc đàm thoại ngày 20/06/1972 (được bạch hóa ngày 09/05/2001) tức sau hai tháng từ ngày những cuộc tấn công của Bắc Việt vào tháng Tư Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, cho thấy trong đi đêm với Tầu cộng, Mỹ quay lưng với VNCH trước cả khi hiệp định Paris73 được ký.
“Chúng tôi sẵn sàng rút ra mọi thành phần quân lực... Chúng tôi tin rằng quan hệ tương lai của chúng tôi đối với Bắc Kinh là còn quan trọng hơn rất nhiều cho tương lai của Á Châu, hơn xa những gì xảy ra ở Phnom Penh, Hà Nội hay ở Saigon… Nếu Bắc Việt tiến hành cuộc thương lượng đứng đắn với Nam Việt, và nếu sau một thời gian dài chiến tranh lại xảy ra sau khi chúng tôi đã tách rời khỏi vấn đề, nhận xét của riêng tôi là khó mà chúng tôi sẽ trở lại, rất ít khả năng”. Chắc chắn mọi chi tiết về cuộc mật đậm này, Bắc cộng đã không hề biết được!
Trong khi đó phía Tầu cộng thành công trong cuộc đi đêm, đã hướng Bắc cộng theo đúng mục tiêu Mao đã vạch ra từ đầu, là chiếm toàn cõi Đông Dương cho nước Tầu. Như mọi người đã biết những thỏa thuận sau cuộc đi đêm 20/06/1972 là Hiệp định Paris ký kết vào ngày 27/01/1973, mà trước đó ngày 16/01/1973, phía Mỹ trao cho Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu bức thư của Nixon, mà Kissinger gọi là “bốc lửa”. Đây là bức thư ép chính quyền miền Nam phải ký vào bản Hiệp định hoàn toàn thất lợi cho mình, trong thư này đoạn quan trọng nhất là:
“Vì vậy chúng tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt Hiệp định ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần thiết, chúng tôi sẽ làm như thế một mình. Trong trường hợp đó, tôi phải giải thích công khai rằng Chính phủ của ông cản trở hoà bình. Kết quả là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức của viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự sắp xếp lại Chính quyền của ông cũng chẳng thay đổi được tình hình” (Wikipedia: Hiệp định Paris1973). Vậy cho thấy một Nixon, Kissinger đã gài VNCH vào thế buộc, và sau đó là cắt dần viện trợ!
Trở lại với George J.Veith - Chuyên gia tư vấn quốc phòng Mark Moyar, nhận xét cuốn Black April đã xuất sắc điền vào khoảng trống lịch sử của giai đoạn 1973-1975 khi Hoa Kỳ đã rút quân và Cuộc chiến Việt Nam, không còn là mối quan tâm hàng đầu của các phóng viên Hoa Kỳ. Một số trận đánh kiên cường của QL.VNCH được George J.Veith nhắc tới đã xảy ra trong tháng Ba và tháng Tư năm 1975 như các trận Mỏ Tàu, Núi Bồng và Bến Cầu, Chơn Thành vùng biên giới phía tây, cũng như trận Cần Thơ và Long An ở Vùng IV.
Với Black April, tác giả đã nhắc cho người Mỹ về một mặt trận lớn của QL.VNCH vào tháng 04/1975, đó là trận chiến Xuân Lộc, ở đó một sư đoàn của quân đội VNCH đã đập tan 3 sư đoàn CSBV. Như một ký giả người Úc D.Warner viết về trận chiến Xuân Lộc 12 ngày đêm: “Với 3 sư đoàn 6, 7 và 341, Văn Tiến Dũng tin tưởng sẽ chiếm được Xuân Lộc một cách dễ dàng - Ông ta đã lầm…Trong những ngày cuối cùng của chiến tranh VN, sư đoàn 18 BB đã chiến đấu một cách dũng cảm, không những họ đã giữ vững được trận địa mà lại còn phản công mỗi ngày”
Chuyên gia tư vấn quốc phòng Mark Moyar kết thúc: “Black April là lời nhắc nhở Hoa Kỳ về cái giá phải trả, bằng nhân mạng khi rời bỏ một đồng minh, 100.000 lính Nam Việt Nam, những người từng sát cánh với Hoa Kỳ trong các trận đánh, cuối cùng đã bỏ mạng bởi bị hành quyết tức thì, hay chết vì bị cộng sản hành hạ trong các trại cải tạo khổng lồ. Hơn nửa triệu người Nam Việt Nam cũng bỏ mạng trên biển khi bỏ trốn chế độ cộng sản, riêng Hà Nội ước tính họ mất 6.000 quân lính chỉ trong vài ngày cuối tháng Tư năm 1975”.
Những điều thú vị thay cho lời kết câu chuyện tuần này: Cái gọi là MTGPMN những ngày sau tháng tư chúng ồn ào, là nhân dân miền Nam đã vùng lên làm cách mạng thành công lật đổ nhà nước VNCH, nhưng theo George J.Veith thì: “việc Bắc Việt Nam giết hại những người không cầm súng ở Huế năm 1968 và dọc Quốc lộ 1(đại lộ kinh hoàng) năm 1972 khiến người dân phát hoảng và họ đã tràn ra các ngả đường theo quân miền Nam rút đi”.
Và chúng ta cũng đã biết tại Mặt trận Long Khánh Xuân Lộc ngày 19/04, là thời điểm các đơn vị rút khỏi phòng tuyến Xuân Lộc, lúc 9.00 giờ đêm, các đơn vị Nhảy Dù / LĐ1ND vừa rút ra tới QL1, và một hoạt cảnh rất cảm động xảy ra, tất cả dân làng già trẻ lớn bé của các xóm Bảo Định, Bảo Tồn và Bảo Hoà, đã tập trung sẵn hai bên vệ đường để theo chân lính Dù di tản.
Tháng Tư Đen là hình ảnh của một QLVNCH đã bị trói tay bức tử. Lịch sử là những gì lập lại, 30/04/1975 gợi nhớ đến trận đánh đầu đời của Võ Nguyên Giáp tại Thái Nguyên 19/08/1945, lúc đó Nhật sau hai quả bom nguyên tử đã đầu hàng từ 03 ngày trước (15/08/1945) các nơi đều bỏ ngỏ… 40 lính Việt Minh đã nổ súng vào quân Nhật, và sử đảng ghi: Võ Nguyên Giáp ‘giải phóng’ Thái Nguyên.