Những thực hư trong quá trình Pháp thuộc.
Nguyễn Huy Long
Chuyển: Yên Sơn
Sau ngày 30/04/1975, chúng ta thường nghe những câu chuyện khôi hài của người “bên thắng cuộc”. Một trong những mẫu chuyện đó là “họ chưởi Mỹ nhưng rất thích những sản phẩm của tư bản như Coca, Akai etc...”. Thời ông Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng, có 1 ký giả Mỹ hỏi ông tại sao chống Mỹ mà bây giờ gởi con cái qua Mỹ học?. Ông trả lời “Chúng tôi chống Mỹ vì họ xâm lăng nước tôi, nhưng chúng tôi cho con cái qua Mỹ học vì Mỹ là 1 quốc gia tiên tiến bật nhứt về khoa học, kỹ thuật”. Điều nầy cho thấy có sự tương quan giống như người miền Bắc vào Nam sau 75 thích uống Coca Cola, nghe nhạc từ Akai nhưng vẫn cứ chưởi đế quốc, tư bản... Mới nghe thì có vẽ mâu thuẩn, buồn cười hay “đạo đức giả”, nhưng về sau, khi những sân hận đã lắng xuống theo thời gian, tôi thấy nó rất thực tế và không có gì phải phê bình cả. Sự việc nầy cũng giống như những nhận định về những gì xã hội VN chúng ta đã tiếp thu (đồng tình hay bị cưởng ép, hay thuần thục sau 1 thời gian lâu dài bị cưởng ép) từ thời Pháp thuộc đến 1975, trong đó sự hình thành chữ quốc ngữ hiện nay là 1 khía cạnh của những sự tiếp thu đó.
Kiến thức con người không phải do ơn trên ban cho. Nó là những gì chúng ta tiếp thu từ môi trường chúng ta được giáo dục từ nhỏ đến khi trưởng thành, do đó nó có thể tốt hay xấu tùy theo nguồn tin (information sources) của môi trường chúng ta sống, và cách thức chúng ta tiếp nhận. Kiến thức người miền Nam trong thời đại chúng ta (có thể nói từ thập niên 1940 đến 1975) hấp thụ từ nền giáo dục hậu thực dân Pháp. Các chính quyền của hai chế độ (Đệ Nhất & Đệ Nhị Cộng Hòa) không, hay chưa có thời giờ nghiên cứu lại một cách khách quan những sự kiện lịch sử cận đại của VN nói chung và miền Nam nói riêng, do hoàn cảnh chiến tranh hay do cách nhìn của lãnh đạo, nên chúng ta học lịch sử VN từ những text book của những nhà trí thức thời Pháp thuộc hay các hậu duệ của họ. Họ nói gì chúng ta học nấy, khen và chê, chính và tà chúng ta bị wiring bởi những nhận định của họ trong não chúng ta từ khi còn là đứa bé tiểu học. Ngay cả lịch sử thế giới cũng viết theo quan điểm chính quyền đương thời. Thời ông Diệm, ông Nguyễn Hiến Lê được giao viết viết sử Thế giới cho học sinh trung học. Ông Lê viết trung thực nên có đoạn đụng những corruption của Vatican trong quá khứ từ thời Trung cổ đến thực dân. Ông Diệm là Công giáo thuần thành nên đòi ông Lê phải cắt bỏ. Ông Lê không đồng ý nên ông Diệm giao cho các học giả khác, và đó là những gì chúng ta đã học.
Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Nam dưới 2 chế độ Cộng Hòa. Tôi học lịch sử VN cận đại và trọng nể những học giả như Trương Vỉnh Ký (Petrus Ký hay tên thánh Jean-Baptiste Petrus), Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim etc.... Qua sách sử tôi thấy ông Nguyễn Trường Tộ (còn gọi là Thầy sáu Lân) sau khi đi Pháp về có những đề nghị “canh tân” cho Việt Nam nhưng bị vua quan thủ cựu thời Tự Đức bác bỏ. Qua những học giả nầy tôi học được rằng nhà Nguyễn, vua Minh Mạng, Tự Đức không chịu canh tân lại đàn áp giáo dân, giáo sĩ Pháp nên mới tạo cơ hội cho Pháp vào; các cuộc khởi nghĩa chống Pháp chỉ được nhắc tới như những chronological events; những công trình “khai hóa” của Pháp được nhắc tới ở bề mặt “nỗi” (trong đó có sự trân trọng cha đẻ chữ quốc ngữ Alexander De Rhodes) mà không đề cập chi tiết những mất mát mà người dân Việt Nam phải chịu dưới thời cai trị của họ.
Khi qua Nhật tôi có cơ hội tiếp cận nhiều nguồn tin khác. Tôi đã hơi nghi ngờ những thông tin từ các ông “bác vật” nầy, nhất là khi biết gốc gác, sự quan hệ của họ với thực dân Pháp và các giáo sĩ thừa sai. Nhưng bận lo học hành và sinh kế nên không có thì giờ tìm hiểu thêm.
Gần đây có cơ hội đọc bài bút ký “Quê Hương Ngày Trở Lại - Huế” của bà Thụy Khuê, tôi mới thấy rõ những thông tin dẫn dắt sai lầm về lịch sử của những học giả tay sai Pháp nầy. Qua những dẫn chứng từ Đại Nam Thực Lục của lịch sử VN thời Nguyễn & Pháp thuộc, bà TK cho ta cái nhìn mới hơn về những con người nầy.
Về Trương Vỉnh Ký, bà viết :” Người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã buộc tội và mạ lỵ vua Minh Mạng nặng nề, vô cố nhất là học giả Trương Vĩnh Ký.Khi viết sử về giai đoạn Pháp thuộc, Trương Vĩnh Ký có giọng điệu thực dân hơn cả thực dân, ông dùng chữ "trừng trị" để chỉ việc Pháp đánh nước ta, ông hồ hỡi khi Pháp thắng trận. Những đoạn mạt sát Minh Mạng, đôi chỗ trở thành "phản quốc", ông không ngừng buộc tội vua, bằng những sự kiện hoàn toàn bịa đặt: Lối viết sử của học giả Trương Vĩnh Ký cho học trò học về vua Minh Mạng là như thế. Trương Vĩnh Ký còn xác nhận rằng nước ta "có tội" trước nên Pháp mới "trừng trị"?!. Như lời nhiều sử gia thuộc điạ, cuốn lịch sử đầu tiên họ được đọc về Việt Nam là cuốn lịch sử của Trương Vĩnh Ký!. Nguồn cội sự bài trừ Minh Mạng từ đâu ra? Hẳn là từ việc Minh Mạng cấm đạo và Trương Vĩnh Ký được các giáo sĩ nuôi dạy ở chủng viện Penang từ nhỏ. Nhưng việc cấm đạo ở nước ta, không đơn giản, có một quá trình dài từ thời các chúa Nguyễn, lúc gắt gao, lúc nương tay, tuỳ theo tình trạng nội trị và ngoại giao, có khi bởi chính các giáo sĩ đã dìu dắt giáo dân chống lại triều đình. Những điều mà học sinh được học về Minh Mạng, đã bị lọc qua lăng kính các giáo sĩ Pháp (Louvet, Pelerin) các sử gia thuộc điạ, kể cả những người như Trần Trọng Kim và Phan Khoang cũng đều nhất loạt cho rằng: vì Minh Mạng giết đạo và bế quan toả cảng nên nước ta mới lạc hậu và sau này bị Pháp xâm chiếm, là hoàn toàn sai”. Theo bà Minh Mạng (1820-1841) là vị vua lớn của triều Nguyễn, đã nhìn thấy hiểm hoạ ngoại xâm bắt nguồn từ các giáo sĩ người Pháp, đặc biệt từ khi Alexandre de Rhodes vận động Giáo Hoàng cho giáo sĩ Pháp độc quyền cai quản địa phận Việt Nam, các giáo sĩ Pháp luôn luôn tìm cách dẫn đường cho thực dân Pháp. Trái với nhận định vua Minh Mạng thủ cựu, nhà vua không ngừng canh tân đất nước, ông đã cho thợ làm chiếc tầu đầu tiên chạy hơi nước năm 1839 và thời Tự Đúc đã có sáu chiếc...
Về Nguyễn Trường Tộ, bà viết: “Hồi trẻ, tôi được học về Nguyễn Trường Tộ, tôn sùng ông một cách quá đáng, học rằng: ông đã đưa ra hơn 50 bản điều trần mà vua Tự Đức và triều đình ngu muội không nghe. Nguyễn Trường Tộ cũng không phải là người đầu tiên sang Pháp (năm 1939 vua Minh Mạng lần đầu tiên đã cử Trần Viết Xương và Tôn Thất Thường sang Pháp và Anh với hai thông ngôn). Ông là người Công giáo Bùi Chu, đi theo Giám mục Gauthier, từ năm 1859 đến 1861, để làm gỉ? Tôi không tin mấy ông Giám mục chuyên làm mật thám cho Tây. Khi về nước, ông làm thông ngôn cho Pháp. Những bản điều trần của ông, lập luận thiên Pháp rõ rệt, đệ lên vua sau khi nước ta đã mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, mà ông vẫn chưa tỉnh ngộ, ông vẫn tin tưởng vào "lòng tốt" của người Pháp, tin rằng chỉ biếu họ vài miếng đất và để họ tự do giảng đạo là xong. Ông khuyên vua nên "hợp tác" với Pháp, dùng giáo sĩ trong việc nội trị. Ông có ngây thơ quá không?.
Về Alexandre de Rhodes, bà viết: “Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan đã bao dung Alexandre de Rhodes, để ông ta vác đầu lâu André Lý đi hơn ba năm về Roma xin giáo hoàng trừng trị nước Nam.”
Về giáo sỉ Alexandre de Rhodes, người được ngợi khen là cha đẻ chữ quốc ngữ VN, linh mục Đỗ Quang Chính (Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn, 1972) đã viết: "Đắc-Lộ (Alexandre de Rhodes ) không phải là người Âu châu đầu tiên học tiếng Việt, cũng không phải người đầu tiên sáng tác chữ quốc ngữ, hơn nữa, vào năm 1636 Đắc-Lộ cũng không phải là người ghi chữ quốc ngữ đúng được như một số Linh mục Dòng tên Bồ Đào Nha ở Việt Nam thời đó (ông đã học tiếng Việt từ Cha Francisco de Pina người Bồ Đào; ông cũng sử dụng những công trình biên khảo tự điển của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspar de Amaral và Cha Antonio Barbosa - Từ điển Annam-Lusitan-Latinh). Thật ra, trong giai đoạn thành hình chữ quốc ngữ, Đắc-Lộ chỉ góp một phần trong công việc quan trọng này, mà rõ rệt nhất là soạn sách chữ quốc ngữ và cho xuất bản đầu tiên".
Chúng ta tìm hiểu sự thật về lịch sử cận đại của dất nước ta để làm gì? Đối với tôi câu trả lời là để phân biệt rõ hiện tượng và bản chất. Không ai có thể phủ nhận giá trị tiếng Việt hiện nay (cũng như tôi đang viết bằng tiếng Việt La tinh đây). Nhưng khen chê những kẻ góp phần (góp chứ không phải “khai sáng”) phải phân biệt rõ ràng dựa trên chủ đích thật sự của họ.
Các giáo sĩ Thừa sai (những kẻ Vatican phái khiển đi làm việc và ăn lương từ các chính phủ thực dân như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha) có hai nhiệm vụ chính: 1) Mở đường cho thực dân xâm chiếm thưộc địa (tạo mọi sự tuyên truyền, khiêu khích để thực dân có cớ xâm lăng. Biến cố vịnh Đà Nẵng 1847 dưới thời Thiệu Trị đã chứng tỏ điều đó); 2) Truyền đạo, tạo những căn cứ tín đồ vững chắc như Bùi Chu, Phát Diệm, những tay sai con chiên để truyền bá đạo và biện hộ sự xâm lăng của của thực dân (Petrus Ký, Nguyễn Trường Tộ Trần Bá Lộc, Huyện Sỹ etc...).
Để giảng đạo trực tiếp với người địa phương không qua thông ngôn, họ đã từng cố gắng La tinh hóa các ngôn ngữ của Nhật, Triều tiên, Trung hoa trước khi đến VN, nhưng thất bại vì các yếu tố “đồng âm dị nghĩa” của bản ngữ, và địa dư ở các xứ nầy. Riêng VN do tiếng Việt có 15 ngàn âm, ít bị đồng âm dị nghĩa như các tiếng Hán khác, và Pháp đô hộ VN trong quá trình lâu dài 80 năm nên họ đã thành công trong việc chuyển đổi tiếng Hán Nôm qua tiếng La tinh (Tiếng Việt Trong Sáng – Đổ Thông Minh).
Mục đính chính của họ qua mọi việc làm là phục vụ cho chủ nghĩa thực dân, chứ không phải là để khai hóa người Việt Nam.
“Tôi yêu tiếng nước tôi, tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi, qua ngàn năm thành tiếng lòng tôi. (Phạm Duy)”. Tiếng Việt hiện tại đã trải qua và tồn tại ngàn năm, nó như dòng sông dũng cảm qua những thác ghềnh Tàu trị, Pháp trị và nó là bản sắc của cả 1 dân tộc, là sự đóng góp chung của cả mọi người. Chúng ta luôn trân trọng, sử dụng những văn minh, kỹ thuật của các thực dân Tây phương, nhưng không thể nói và công nhận Pháp cai trị chúng ta 80 năm là đến khai hóa cho chúng ta để có được như hôm nay. Bản chất thực dân là khai thác tài nguyên, nhân lực của thuộc địa. Tôn giáo họ mang vào là để xóa bỏ văn hóa bản địa để củng cố sự cai trị lâu dài của họ, như đế quốc La Mã hay Ottoman đã áp dụng ngàn năm qua. Bản đồ hiện tại của chúng ta dầu do Pháp vẽ nhưng với mục đích để họ cai trị Đông dương. Ngôn ngữ tiếng Việt hiện tại của chúng ta lúc đầu nằm trong mục đích truyền đạo và hành chính quá thuộc đia sau khi Pháp không thành công trong việc biến tiếng Pháp thành ngôn ngữ chính ở VN như họ đã làm ở New Caledonia và 1 số nước châu Phi.
Lẽ dỉ nhiên thế hệ trẻ ở VN đang biết về lịch sử VN qua giáo trình của chế độ hiện tại nằm trong những gì họ muốn diễn dịch theo quan điểm có lợi cho chế độ. Cũng phải trăm năm sau dưới 1 triều đại nào đó, những diễn biến trong hậu bán thế kỹ 20 tại VN sẽ được soi sáng khách quan hơn, như những gì chúng ta có cơ hội nhìn trung thực những diễn biến, các giá trị thật sự của những con người nổi tiếng trong thời Pháp thuộc dưới triều đại nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của VN.
“Không có ai có thể đi đến đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ”.
Sydney, 31 tháng 8 năm 2019,
Nguyễn Huy Long