KỊCH BẢN BAN CHUYÊN LÁO !
Không hề có chuyện “kéo pháo qua đèo” tại Điện Biên Phủ
Bùi Anh Trinh
Tuyến vận chuyển đạn dược bằng xe tải của CSVN từ Trung Quốc đến Điện Biên Phủ phải qua một cung đường dài 600 cây số. Vật dụng tiếp liệu được chuyển qua biên giới tại Cao Bằng theo Quốc lộ số 3 đến Bắc Cạn và đa số là tại Ải Nam Quan thuộc tỉnh Lạng Sơn rồi sau đó cũng được chuyển qua Bắc Sơn xuống Bắc Cạn.
Tại Bắc Cạn có một trung tâm tiếp vận rất lớn nằm trong rừng thuộc thị xã Chợ Chu. Đa số hàng tiếp liệu được tập trung tại kho Chợ Chu trước khi chuyển đi các mặt trận. Một số không qua Chợ Chu mà đi thẳng theo Quốc lộ 3 xuống Thái Nguyên, tại đây rẽ theo Tỉnh lộ 13 đi Phú Thọ rồi vượt ngang sông Hồng tại Yên Báy.
Từ Yên Báy đi theo đường 13 gặp sông Đà và vượt sông Đà tại Tạ Khoa. Từ Tạ Khoa đâm ra Tỉnh lộ 41 ở ngã ba Cò Nòi rồi theo đường 41 đi qua Sơn La để tới Tuần Giáo là điểm tiếp giáp với tỉnh Lai Châu, tại đây có một trung tâm tiếp vận cho mặt trận Điện Biên Phủ. Tuần Giáo cách Điện Biên Phủ 80 cây số.
Như vậy tuyến vận chuyển gần như là một đường nằm ngang từ phía Đông tại biên giới Trung Hoa ở Lạng Sơn chạy theo hướng Tây đến biên giới Lào tại Điện Biên Phủ. Ngoài ra còn có một tuyến vận chuyển lương thực bằng dân công từ vùng đồng bằng đến Hòa Bình rồi theo Tỉnh lộ 6 đến Mộc Châu, gặp Tỉnh lộ 41 tại Mộc Châu rồi theo đường 41 đến ngã ba Cò Nòi.
Từ ngã ba Cò Nòi nếu theo đường 41 thì có thể tới Tuần Giáo rồi tại Tuần Giáo có thể rẽ vào Điện Biên Phủ; nhưng tại ngã ba Cò Nòi cũng có một ngã đi về hướng Tây tới Yên Châu rồi qua biên giới Lào thì gặp sông Mường Hét, có thể đi theo đường lộ dọc sông Mường Hét để vào lại Việt Nam và tới Điện Biên Phủ.
Tình hình tuyến đường vận chuyển tiếp tế đến Điện Biên Phủ được Tướng Lê Trọng Tấn kể lại: “Đường đi chiến dịch năm nay đã mở rộng, rải đá phẳng lỳ. Trên đèo Phiêng Ban nườm nượp dân công gồng gánh, xe thồ, cả nước lên đường trong trạng thái phấn chấn của cuộc Cách mạng Cải cách ruộng đất”.
“Qua sông Đà năm nay, chúng tôi được đi cầu phao do Công binh bắc từ trước. Ra đến đường 41 thì một cảnh tượng chưa từng có đập vào mắt: Hàng đoàn ô tô kéo pháo, chiếc nọ kéo chiếc kia lăn bánh trên con đường rộng thênh thang giữa hai hàng dân công và bộ đội cùng hành quân theo một hướng…Và đêm nay, dưới ánh trăng rừng vằng vặc của mùa đông, con đường sống động như một dòng sông. Người và xe cuồn cuộn nối nhau lên Điện Biên”.
Năm 1953, đầu năm, một trung đoàn pháo binh gồm 36 khẩu súng 105 ly được đưa từ Trung Quốc về Việt Nam: “Trong quý 1 năm 1953, trung đoàn lựu pháo 105 ly do bạn trang bị và huấn luyện đã về nước. Việc vận chuyển trọng pháo từ Vân Nam về Việt Bắc phải dùng bè đi theo sông Hồng qua nhiều ghềnh thác. Trung đoàn cao xạ 37 ly đang được gấp rút chuẩn bị về nhân sự” (Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, bản in lần 2, trang 12).
Đây là súng đại bác của Hoa Kỳ mà Mao Trạch Đông tịch thu được của quân đội Tưởng Giới Thạch. Đại bác 105 ly là vũ khí lợi hại nhất của quân đội Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ 2. Và mãi cho tới năm 1975 thì loại súng này vẫn là vũ khí lợi hại nhất của Quân lực Việt Nam Cọng Hòa.
Về phía quân đội Pháp thì đại bác 105 ly của Hoa Kỳ cũng là vũ khí lợi hại nhất của Pháo binh Pháp thời bấy giờ. Vì vậy suốt cuộc chiến Điện Biên Phủ chỉ là trận đọ pháo giữa 36 khẩu 105 ly của Võ Nguyên Giáp và 24 khẩu 105 ly của De Castries.
Năm 1954, ngày 14-1, Võ Nguyên Giáp họp Bộ chỉ huy mặt trận tại hang Thẩm Púa, gần Điện Biên Phủ, ban hành lệnh tấn công Điện Biên Phủ theo lối đánh cường tập, nghĩa là đánh nhanh và đánh mạnh.*( Theo hồi ức của Tướng Lê trọng Tấn thì người ban lệnh hành quân là Tướng Hoàng Văn Thái; nghĩa là Tướng Giáp vắng mặt. Tuy nhiên theo hồi ký của VNG thì ông có mặt tại buổi họp đó nhưng với tính cách là “bí thư quân ủy”. Thực ra người ban lệnh hành quân ngày hôm đó là tướng cố vấn Vi Quốc Thanh, Tướng Thái chỉ thông dịch lại).
Ngày giờ nổ súng là chiều ngày 20-1-1954. Dự trù trận đánh sẽ kéo dài trong 2 ngày, 3 đêm. Đại đoàn 308 trách nhiệm mở đường để kéo pháo vào trận địa, dự trù trong 24 tiếng thì hoàn tất. Đại đoàn 312 và 351 trách nhiệm kéo pháo vào vị trí chiến đấu, dự trù hoàn tất trong 3 đêm.
“Vì sợ tiếng máy của xe kéo pháo làm cho quân Điện Biên Phủ phát hiện cho nên VNG dự tính xe ô tô sẽ cắt pháo tại cửa rừng Nà Nham trên Tỉnh lộ 41, sau đó sẽ kéo pháo bằng tay lên đèo Pha Sông cao 1.150 mét, qua cả một hệ thống núi dài 15 cây số từ Nà Nham sang tới Bản Tấu nằm trên đường mòn Lai Châu – Điện Biên Phủ, cách Điện Biên Phủ 16 cây số. Dự tính sau đó lại kéo tay theo đường mòn một quảng 16 cây số nữa mới vào trận địa”. ( Hồi ức của Lê Trọng Tấn, trang 273 ).
“Năm 1954, ngày 15-1, Đại đoàn 308 hoàn tất việc dọn đường kéo pháo trước thời gian ấn định. Tuy nhiên Đại đoàn 312 và Đại đoàn Pháo binh 351 gặp trở ngại trong việc kéo pháo qua đèo bằng sức người. Thời gian dự trù hoàn tất trong 3 đêm không thực hiện được.
Tướng Giáp đích thân đi quan sát tuyến đường và cho lệnh hoãn giờ nổ súng thêm 5 ngày nữa. Và rồi cuối cùng nhắm chừng kéo bằng tay không kịp, Tướng Giáp quyết định cho kéo pháo qua đèo bằng ô tô” ( Hồi ký của Võ Nguyên Giáp, trang 98, 146 ). May mắn là quân Pháp tại Điện Biên Phủ không nghe thấy “tiếng xe ô tô trên đèo”.
Truyền thuyết tải gạo, tải đạn bằng sức người:
Sau này rất nhiều nhà báo Tây Phương ca tụng “lối tiếp vận bằng khiêng vác của bộ đội Việt Minh”. Các nhà báo tin rằng “dân công đã chuyển đến Điện Biên Phủ hằng chục vạn tấn lương thực và đạn dược chỉ bằng sức khiêng vác. Và cả chuyện kéo súng đại bác qua đèo bằng tay”.
Tuy nhiên các nhà quân sự học thì không tin như vậy, họ rất thắc mắc về cách tiếp vận của CSVN trong chiến tranh Đông Dương và trong chiến tranh Miền Nam Việt Nam. Các con số thống kê về tiếp liệu đã cho người ta nhiều bài toán, và đáp số của các bài toán đều đưa tới kết luận là cần phải loại bỏ khả năng khiêng vác bằng sức người.
Vậy thì ẩn số bí hiểm của chiến trường Điện Biên Phủ chỉ là vận chuyển bằng xe. Chuyện vận chuyển bằng sức người là do mắc hỡm tuyên truyền của Cộng sản Việt Nam. Tất cả những hình ảnh còn lưu lại về đoàn dân công vận chuyển lương thực bằng xe đạp thồ là hình của trận Na Sản vào cuối năm 1952. Và một số là hình ảnh trong các phim diễn lại trận Điện Biên Phủ.
Hồi ký của Lê Trọng Tấn và Võ Nguyên Giáp cho thấy tất cả lương thực, đạn dược được chuyển bằng xe vận tải. Và “kéo súng đại bác qua đèo cũng bằng ô tô”. Chuyện vận chuyển lương thực bằng sức người đã được Tướng Võ Nguyên Giáp xác nhận trong quyển hồi ký “Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử”:
“Trong chiến dịch Tây Bắc cuối năm 1952 (trận Na sản), ta huy động được ở Thanh Hóa và Ninh Bình hơn 5.250 tấn gạo, nhưng vận chuyển bằng gánh bộ tới Cò Nòi giao cho bộ đội chỉ còn 410 tấn. Lượng gạo dân công tiêu thụ dọc đường chiếm 92% ( Bản in lần 2, trang 182 ).
Cò Nòi mới chỉ là 2/3 đoạn đường dẫn tới Điện Biên Phủ; nếu tính theo xác xuất 92% cho 1/3 đoạn đường còn lại thì sẽ không có một hạt gạo nào đến được Điện Biên Phủ. Ngoài ra, hồi ký “Đường tới Điện Biên Phủ” của tướng Giáp cũng nói rõ về cách vận chuyển tiếp liệu cho trận Na Sản:
“Khó khăn nổi lên là vấn để tiếp tế lương thực và đạn dược trong một chiến dịch dài ngày, những con đường tiếp tế từ Thái Nguyên hay Thanh Hóa ra mặt trận đều từ 200 đến 300 ki lô mét. Theo dự kiến rất khó huy động lương thực tại chỗ. Cách khắc phục vấn đề này là phải sửa đường để sử dụng xe cơ giới. Và phải huy động một lực lượng lớn dân công. Nhưng nhân số dân công tăng lên thì nhu cầu lương thực cũng tăng theo!” (bản in lần 2, trang 319).
Khi hồi ký của Tướng Giáp và Tướng Lê Trọng Tấn được phát hành thì các bài viết trước đây ca tụng cách tiếp vận cho chiến trường Điện Biên Phủ bằng cách khiêng vác đã trở thành chuyện giễu đối với các nhà nghiên cứu quân sự. Nhưng sở dĩ hồi ký Võ Nguyên Gíap đành phải thú nhận sự thực là vì các tài liệu quân sự của Trung cộng được giải mật cho thấy con số hằng chục vạn tấn lương thực và đạn dược chở tới Điện Biên Phủ bằng đoàn xe Molotova 150 chiếc của Trung cộng.
Bùi Anh Trinh
http://hon-viet.co.uk/BuiAnhTrinh_KhongHeCoVuKeoPhaoQuaDeoTaiDienBienPhu.htm