Cái nắng hè đổ lửa nơi vùng đất giáp Lào này, như nung con người, một đội tù là những người lính miền Nam thua trận, họ men theo con đường dốc xuống chân núi, con đường bề ngang chỉ non thước vẫn còn lam nham những mảnh đá tai mèo, mà ngày đến đây chính họ đã khai phá. Từng bước họ nối nhau mà đi, một bên là vách núi, một bên là vực sâu!
Bao nhiêu sức lực của họ, mà một nửa ngày lao động ban sáng như đã vét hết, và bát sắn khô ban trưa tiêu chuẩn trại, không bù đắp lại được bao nhiêu, nay cái nóng làm cho phờ phạc hốc hác thêm. Đi đã không vững, thì nói gì đến chuyện lát nữa đây phải dàn hàng ngang phá rừng cuốc lật, vậy mà vẫn ngày nối ngày đó là công việc chính của họ, dưới chân dốc một cái lán tranh gọi là nhà lô nơi chứa dụng cụ
Đã qua năm thứ sáu ăn cơm tù, tất cả nơi họ hai con mắt thụt sâu trong hố mắt, họ chết đã khá nhiều, xác vùi bên kia khu đồi. Tiêu chuẩn trại mỗi bữa non bát sắn khô, lại thêm quần áo trại không được phát đã hơn ba năm, chúng tơi ra như xơ mướp, được chằng đụp bằng những miếng vải tạp nhạp, trông họ càng thêm nhếch nhác, không khác gì đám cái bang bị gậy, nhìn họ mà nhớ câu đồng dao ngày còn bé, vẫn nghêu ngao hát nhại những kẻ đói khát lê la đầu đường hè phố: Cái đầu xù xụ, con mắt trõm lơ, chân đi cà ngơ.
Đoàn tù là những cái xác vật vờ, nhưng vẫn luôn có hai tay vệ binh cầm AK canh chừng, nó thúc luôn miệng đám tù đi cho chóng đến nhà lô, để nó còn vào đấy mà núp nắng. Nó thúc mặc nó, đám tù như đã kiệt, cứ lê từng bước trong cái gió Lào nóng khô, khí hậu nơi đây khắc nghiệt, chả trách cả một vùng rộng lớn không một bóng người. Rồi thì cũng tới nhà lô, tên cán bộ quản giáo đã đứng đợi ngay chân đồi, gọi đội trưởng đến giao việc, vẫn như những ngày qua, vẫn là việc phá rừng cuốc vỡ lấy đất trồng sắn, thứ cây lương thực chính để nuôi tù và gia súc, mọi người lục đục vào nhà lô lấy cuốc lấy rựa.
Tất cả tiến đến bìa rừng, để lại hai anh được lệnh đứng riêng sang bên, tên quản giáo giữ lại, rằng có việc riêng cho họ, mà không là lao động chung cùng đội. Chuyện làm việc riêng theo chỉ định của cán bộ, thì vẫn thường xảy ra cho anh em tù, nhưng riêng Bình và Châu thì chưa từng và đây là lần đầu với họ, ngày tháng tù cứ trôi cái quen im lặng đã thành nếp, bởi không làm việc này, thì cũng phải làm việc khác thôi.
Sau cái ngoắc tay như ra lệnh, hai anh tù lẽo đẽo theo tên quản giáo, đi ngược con dốc về phía sân cơ quan, tên cai tù này hắn không ưa Châu, ánh mắt hắn nói vậy, chắc chắn Châu cũng biết được điều đó. Bởi trong một lần đội thu hoạch khoai, Châu đã lớn tiếng cùng anh em phải loại vứt đi những củ khoai sùng hà, nếu không chính những anh em tù lại phải ăn nó thôi, câu nói đã không hài lòng tên quản giáo, nói thế thì có khác gì phá đi cái thi đua, gia tăng năng xuất lập thành tích của hắn, cho nên không lạ hắn nhìn Châu, luôn với ánh mắt của một con cú.
Vẫn trên con đường dốc ban nãy, lần này đi ngược lại chỉ có hai người tù và tên quản giáo. Không giấu, tên cai tù cộng sản lớn tiếng cho Châu biết, từ nay sẽ luôn có việc riêng như thế này cho Châu, hắn gọi Châu là thứ cải tạo ‘bầy nhầy’, cây cuốc không ích gì trong tay Châu, cuốc đất giống như người ta gãi ghẻ. Thì ra là bên thắng cuộc hắn đầy đọa người thua trận! Còn Bình, cũng là một người tù mồ côi như Châu, tay chân khẳng khiu gầy trơ xương, chắc lại là vì không có được những nhác cuốc cho ra hồn, mà được cặp đôi cùng Châu. Nhưng không, sau khi chê Châu cuốc như gãi ghẽ, thì hắn cũng cho biết là hắn sẽ quan tâm, tạo điều kiện tốt cho Bình cải tạo, với hắn Bình có nhiều biểu hiện không an tâm học tập (?!).
Tập trung cải tạo là tù không bản án, chỉ có trong chế độ cộng sản mới có loại tù này, và chuyện được phóng thích sớm hay muộn của người tù, phần nào cũng được căn cứ vào nhận xét của tay cán bộ quản giáo, một khi bị nhận xét là không an tâm, thì chuyện thấy rõ là tù thêm một vài mốc gia hạn cải tạo, mỗi mốc là ba năm. Và chuyện Bình bị cho là không an tâm, Châu không lạ và hiểu điều đó, cùng một đội là bạn tù, có nhiều thứ riêng tư tuy không thổ lộ, nhưng sống chung cùng nhau làm sao giấu được, nhất là chuyện gia đình tan nát như Bình đang gặp.
Những anh em bị như vậy, đâu có khó để nhận biết là ai đã gặp chuyện không may, ở tù cùng nhau thoáng nhìn là hiểu, đâu cần phải được nói mới rõ, và cũng không cần thời gian dài mới biết, chỉ dăm bảy tháng là biết thôi, những ai được gọi là tù mồ côi, cái tên gọi vậy đã nói lên hoàn cảnh. Và trong trường hợp có bạn vướng cảnh như vậy, thấy ra chẳng có gì có thể giúp được nhau ngoài sự im lặng, đó là cách chia sẻ tốt nhất, mọi lời nói chỉ khiến vết thương bạn mình như tươm thêm máu, ngầm thương cảm thế là đủ, mong thời gian nỗi buồn sẽ phải dần qua.
Nhưng không như những anh em khác, nơi Bình nỗi buồn ngày càng nặng hơn, giữa tập thể bốn mươi người của đội, anh chỉ như một cái bóng, không chuyện trò cùng ai, thái độ đó khiến tên cai tù quản giáo để ý là điều dễ hiểu, nó cho là anh không an tâm cải tạo, chứ nào biết đến nguyên do. Là người cùng nỗi đau, nghĩa là Châu cũng chẳng khác gì Bình, mà muốn kết với Bình thành đôi bạn thân, để cùng chia sớt nỗi buồn cùng nhau, nhưng chưa có dịp… Nay cơ hội đã đến, cả hai bị tách riêng ra không làm chung cùng đội, cái riêng biệt đã là cái may để họ thành bạn, và để phá vỡ cái im lặng của bạn, kẻ bày tỏ mở lời trước sẽ phải là Châu.
Ngay giữa cơ quan, một vuông sân được tráng xi măng mà chiều chiều bọn cán bộ chúng vẫn tụ nhau chơi bóng, sân hôm nay phơi đầy những quả đậu xanh chín khô, vỏ đã đen và xoắn lại, tên quản giáo chỉ sân đậu đang phơi, đó là nơi cả hai lao động. Một tên tù hình sự đánh xe trâu cũng vừa tới, trên đó là một trục lăn bằng đá, đẽo hình trụ đường kính khoảng năm tấc, dài có hơn thước, lõi giữa là khúc gỗ xỏ dọc thân trụ, hai đầu đều có dây nài nối vào một cái ách đôi, vẫn thường thấy ở xe hai bò kéo.
Vài tên cán bộ đứng gần đó phụ vào để đem trục lăn xuống, cái ách đôi cùng trục lăn bằng đá là dụng cụ của trâu bò, nay đem ra dùng cho hai người tù miền Nam gầy gò, máng ách vào cổ mỗi người một bên, dây thừng choàng qua vai ngược ra sau nách. Công việc là kéo cho cái trục đá lăn cán vỡ vỏ đậu… Bình và Châu là hai con vật người, kéo cái trụ đá lăn trên lớp đậu đang phơi giữa trưa hè đổ lửa, cứ mỗi hai mươi vòng sân được nghỉ mươi phút, để tên hình sự đánh xe trâu quét gom những hạt đậu vào bao. Nếu xong sớm được nghỉ sớm, tên quản giáo nói thế cùng tay tù hình sự, như thể giao Bình và Châu cho nó rồi bỏ đi.
Chỉ mới vài vòng sân, hai người tù ướt đẫm mồ hôi như bị dội nước, và rồi những lần mươi phút nghỉ cả hai như thấy nó ngắn dần, bước chân trần đạp trên vỏ đậu bây giờ như đang bước trên đá tai mèo, và những hạt đậu lổn nhổn dưới gan bàn chân, đau thốn lên tận óc. Bước đi cả hai không còn khiến được cái trục lăn nằm ngang, mà nó không chếch đầu bên này thì cũng chếch đầu bên kia, bởi sức kéo của hai không còn đều được nữa… Nhưng mặc, họ vẫn gò lưng!
Hãy nói chuyện để quên đi cái nặng nhọc, Châu nói cùng Bình và không đợi bạn đáp, Châu kể cho bạn nghe chuyện Châu có được hai đứa con, và Châu đã mất cái mà anh vô cùng trân quý, đó là gia đình. Con của Châu, hai đứa trẻ thiếu cả cha lẫn mẹ, được người thân của anh chia nhau nuôi chúng, nỗi đau đó đến với Châu khi anh vừa bước sang năm thứ ba làm thân tù biệt xứ đất Việt Bắc, nay nỗi buồn đã thành sẹo. Châu nói như khuyên bạn, chuyện buồn nào rồi cũng nguôi ngoai, vết thương nào rồi cũng kín miệng, đừng ngã gục như kẻ giam cầm những người lính miền Nam mong muốn, qua câu nói bất nhân khốn nạn: Nhà chúng nó ta ở, vợ chúng nó ta lấy, con chúng nó ta bắt làm nô lệ, còn chúng nó ta đày đi nơi rừng thiêng nước độc sẽ chết.
Châu dứt chuyện của mình bằng câu: Chuyện của tôi, giống như bao câu chuyện của những người tù miền Nam không may, nếu anh cũng đồng cảnh như tôi, tại sao chúng ta không nói cho nhau nghe cho vơi, để rồi đào sâu chôn chặt bất hạnh của mình, mắt thẳng nhìn phía trước mà sống… Có tiếng một trong hai người khóc, không là Châu mà là Bình, câu chuyện đã đánh động những gì đang chất chứa trong lòng anh, đã khơi gợi cái đau anh đang mang! Ngày 30 tháng tư anh đang trên một chiến hạm, và đó cũng là ngày cách biệt, khi anh quay về được đất liền, chúng giam anh vào tù và đưa anh ra Bắc, anh nhớ lắm hai đứa con trai anh, lúc đó đứa lên năm đứa lên ba.
Còn vợ anh, một người mà anh thương hết lòng, anh yêu cô ngày cả hai còn sinh hoạt chung với nhau trong một họ đạo bên Gia Định, chàng trai đã tỏ lời yêu thương cùng cô gái ngoan đạo trong một đêm Giáng Sinh. Đêm đó cô đóng vai Mẹ Maria trong hoạt cảnh ‘Đêm Bết Lê Hem’, ngày Chúa Giê Su sinh trong chuồng chiên máng cỏ, mối tình hai người thật đẹp, ngày anh tốt nghiệp SQHQ cũng là ngày họ nên vợ chồng. Trong anh không thể ngờ sự tan vỡ lại có thể đến với gia đình anh được, với anh: Chúng tôi có Chúa, và chúng tôi cũng biết có quỉ Sa Tan, chúng là cộng sản, chúng phá hủy tất cả, chúng đã biến tất cả thành địa ngục, trong đó có gia đình tôi.
Bình và Châu đã thành bạn thân, có thể dùng chữ bạn đồng cảnh là đúng nghĩa nhất… Rồi đời tù xáo trộn cả hai không cùng chung một đội, Châu xuôi Nam cuối đông năm 1981, còn Bình ở lại đất Bắc. Ngày Châu về được nghe mẹ kể, cuối năm 1984 Bình ra tù, anh cùng hai đứa con trai đến chào, chào để đi vượt biên, hứa rằng khi đến nơi anh sẽ thư về, nhưng từ đó tới nay bặt không một tin tức gì của anh. Có thể Bình cùng hai con đã đầm xác ngoài biển khơi!
Nay mùa Giáng Sinh lại về, và vẫn là thông lệ quen thuộc trong các buổi Lễ hay Truyền Giảng, nơi các Nhà Thờ, Hội Thánh, vẫn luôn dựng cảnh ‘Sự tích Chúa Giáng Sinh’, với các cô gái đồng trinh được chọn làm vai mẹ Maria. Mà nhớ đôi bạn tù ngày nào, nay chỉ còn lại mỗi Châu, trong ngày đông tháng giá nơi xứ người, anh nhớ về bạn mình:
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Không còn đứng nép ở lầu chuông3
Những khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa giáo đường (thơ Kiên Giang)
Từ ngày giặc đỏ cướp quê hương, những đau thương cùng bất hạnh đâu chỉ riêng ai, mà là cả một dân tộc đất nước… Hãy xin được nguyện cầu: Sáng danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm.