Có thể nói tháng Ba cuối, nó gắn liền với những mất dần lãnh thổ của Quân Khu I và hầu hết của Quân Khu II, nếu nhìn theo bờ biển cong chữ S, ngày cuối 31/03/1975 nó rơi đúng vào thành phố biển đẹp nhất nước ta. Những ai có mặt ở Nha Trang ngày tháng đó còn nhớ, từng đoàn người từ phía bắc Huế, Đà nẵng, hay miền cao Kontum, Pleiku các ngã đổ về Nha Trang, dân thì tìm đường vào Sàigòn, lính tráng thì nghe đâu tái phối trí tại Quân Đoàn 2.
Và Nha Trang mất, mở đầu cho tháng Tư nối tiếp, tôi cũng như mọi ngườii, không thể nào gột xóa khỏi ký ức, một mốc thời gian đầy những chia ly, tan tác cùng đắng cay. Nay thân trôi dạt tha hương, nhớ về tháng tư xưa trong niềm đau và nỗi nhớ… Những bài reposts trong tháng này đều là để nhắc nhớ cho chúng ta những sự kiện cùng ngày tháng của nó - Bài “NHA TRANG” đã đăng vào đầu tháng 04/2012, đánh dấu tháng Tư đầu Việt Nhân tôi, đã về làm việc chung cùng anh em lính cũ điện báo HNPĐ.
Ngày 25-03 tin Khánh Dương mất, bần thần ngẫn ngơ, để rồi như kẻ mất hồn tôi thẫn thờ tự hỏi, có quyết định gì khác hơn cho Nha Trang, sao toàn là những chuyện quay lưng, mà không một lần vung tay gươm, tay súng, dẫu có chết cũng mát lòng. Tôi cảm được cái mong manh của Nha Trang, phải chăng có những quyết định đến từ cái giận lẫy thiếu sáng suốt, để rồi rút quân hay bỏ ngõ, và tin lực lượng Dù cùng Biệt Động, có cả SĐ23 rút từ BMT về cũng đang rút dần xuống phía nam của những ngày cuối tháng Ba.
Cảm giác mất mát nghe lớn dần trong lòng, khi nghĩ tới lúc phải bỏ Nha Trang mà đi! Trên đường bộ xuôi nam, bọn du kích địa phương bắn vãi đạn vào dân, để ngăn chận những ai trốn chạy chúng, nhưng chúng không giữ được người dân, từng đoàn di tản tiếp nối nhau men dọc theo mé biển tìm đường thoát. Nha Trang hấp hối từ đêm cuối 31/03 - Cầu Đá đầy những dân cùng tàu bè từ các tỉnh ngoài chạy vào, khu xóm Chutt nhà nhà đóng kín cửa, xóm Chutt trước vốn thường bình lặng, nay con đường phố nhỏ đầy những dân chạy loạn, họ táo tác kéo nhau đi trong cơn hốt hoảng.
Một ước ao chợt thèm! Nhiều thành phố đã bỏ trống, QĐ.I rồi II liên tiếp triệt thoái, sao không cho những thằng lính chúng tôi một lần được vung tay, còn gì chua chát hơn khi chưa một trận đánh, sao mà cảnh vật lại mang cái ảm đạm của của chiến trường lúc tan cuộc. Sau này được nghe chuyện Tướng Lê Minh Đảo, cùng SĐ18 của ông với mặt trận Long Khánh, trong những ngày cuối tháng tư đen, không ít người lính ngày nào, từ ray rức đi đến tiếc nuối sao không một lần làm điều mình mong muốn, “nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.
Có vài chiếc tàu HQ đã nhổ neo rời bến, con tàu với những người dân đặc kín trên đó, chúng cũng đang ra khơi, nhưng lần này hình ảnh không còn là những con tàu ngày nào cày trên sóng vẫy vùng, mà là một cái gì luộm thuộm như những người thương binh đang dìu nhau sau trận chiến. Nhìn quanh Nha Trang, bước chân cộng quân còn đâu mãi Dục Mỹ, Lam Sơn, mà thành phố đã mang cái nét cam phận buông xuôi! Một nỗi trống vắng lớn lao xâm chiếm, theo linh cảm mà đảo mắt nhìn quanh cho cái nhìn lần cuối, cảnh vật mờ mờ như trong làn khói sương, mắt tôi ướt và cay.
Cho tới ngay cả lúc đó tôi vẫn không nghĩ rằng ra đi là vĩnh biệt! Trại cuối khi tôi được tha là trại Gia Trung, ngay đèo Mang Giang, Pleiku, trên đường về sẽ lại được tạt ngang Nha Trang ngày nào – Nhưng chuyện hội ngộ dù chỉ một thoáng chốc, thì sự tương phùng cũng cần một cái duyên, cái mệnh biệt ly đã định thì dù chỉ trong gang tấc, cũng không thể đến được với nhau. Anh lái xe, một lính cũ pháo binh miền nam, tỏ ra tiếc cho tôi không thể tìm về lại Nha Trang, vì xe chỉ chạy đường ngoài mà không vào thành phố, và tôi cũng không đòi lại được tiền vé để mà đi Nha Trang.
Tôi muốn cứ ghé bừa Nha Trang rồi sau đó tìm cách về lại Sài gòn sau, nhưng cái khó về tiền bạc không cho phép, tiền trại phát chỉ vừa đủ vé xe cùng vài bửa ăn khoai sắn, bán đi cái chăn nhà binh cũ cũng không hơn được mấy, chỉ giúp cho bửa ăn được khá thêm đôi chút mà thôi. Đành thôi cứ về Sài gòn đi đã rồi lại tính sau, vả lại đã chục năm hơn, vật đổi sao dời biết có còn cảnh cũ, và phải chăng cái gì đó như duyên định chia lìa đã khiến xui.
Cuộc bể dâu nào mà không mang theo đổi thay cùng mất mát? Sau cuộc chiến là tù đày, tan tác, với chia ly, khiến đời ta thêm phần cằn khô, cái khó khăn của cuộc sống không giúp gì cho ta trong kiếm tìm hạnh phúc, dẫu chỉ là đơn giản tầm thường. Những ngày nhọc nhằn sau khi được phóng thích không cho tôi cơ hội được một lần trở lại Nha Trang, thành phố biển nơi trọn tâm hồn tôi để lại, có người con gái thương tôi, không biết bây giờ em ở đâu, phiêu bạt phương nào.
Thời gian gió thoảng… Ba mươi chín năm rồi kể từ lần nhìn cuối đó, cái hoảng loạn của Nha Trang trong tôi chưa thể nào quên, và cũng chưa một lần về lại Nha Trang, để tìm lại cái an bình của những buổi hoàng hôn ngày nào, hai đứa bên nhau lặng nghe sóng biển, để rồi từ Bình Tân kéo nhau về Chutt mà nghe ly cà phê đậm ấm hơn trong gió đêm.
Tháng tư lại về, người ta đua nhau nhắc nhở đến cái khoảng thời gian đau buồn của đất nước, chỉ toàn những hình ảnh khơi gợi vết thương cũ trong tôi, cái đau càng nhói buốt bao nhiêu tôi lại càng nhớ em nhiều bấy nhiêu, như trong cái bỏng lửa ta thèm cái dịu mát của làn nước. Nha Trang vẫn mãi mãi in sâu trong ký ức, và tim tôi luôn mang lấy hình ảnh của người con gái tôi thương, mà sau ngày rời Nha Trang, mãi đến nay chưa một lần được gặp lại.
Nhớ quá Nha Trang… Nhớ biển… Nhớ cả nụ cười người con gái với mái tóc demi-garçon.