Tiếng Việt của Việt cộng? Tiếng Việt của Cộng hòa?
QĐB đã từng có bài chỉ trích vấn đề phân biệt ngôn ngữ mà nhiều người cho là chữ Cộng Hòa và chữ V+, đây là một hành vi phân biệt, kỳ thị nếu không nói là ngu ngốc của những con lừa ngu si mà cứ tưởng mình là hay là đúng, ngoài ra còn có tâm lý chữ nào V+ dùng thì mình không thèm dùng!
Thứ nhất không có chữ nào của CH và V+ cả mà chỉ có chữ Quốc Ngữ do giáo sỹ Alexandre de Rhodes và các cộng sự của mình làm ra trong quá trình đi truyền đạo.
Thứ hai là những kẻ chuyên chỉ trích chữ V+ lại không nhìn lại cái chữ xưa cũ của mình, đó là những phiên âm, dịch thuật Hán Hóa như Đệ Nhất, Đệ Nhị, trực thăng, thủy quân lục chiến vv.... Điều đó nói lên trong đầu những con người này là những tư duy hán hóa, nô lệ thâm căn cố đế, họ như những con lừa bị bịt mắt bước trên lối mòn quen thuộc trong khi thế giới đổi thay từng ngày.
Ngôn ngữ là dùng để giao tiếp, nói làm sao cũng được miễn người nghe hiểu mình nói gì vì thế không phải tự nhiên mà tiếng Anh còn có tên gọi Sinh ngữ, bởi vì nó thể hiện tính sinh động, đổi mới và ngôn ngữ quan trọng này cũng không phải thuần từ người Mỹ, mà nó là một ngôn ngữ lai tạp của nhiều chủng tộc.
Những cái tư duy cổ lổ này không có chút giá trị gì cho dân tộc Việt Nam hôm nay.
Lê Trương
RFA Blog
Cách đây mấy năm, anh bạn tôi là một nhà báo người Việt, đang làm ở một tờ báo tiếng Việt tại Mỹ than thở: “Khó quá đi trời đất ơi! Các cụ bắt bẻ từng từ một. “Sân bay” không được, phải gọi “phi trường”. “Đường băng” không được, phải xài “phi đạo”. “Tài khoản” (ngân hàng) không được, phải xài “trương mục”… Các cụ bảo “sân bay”, “đường băng”, “tài khoản” là từ của Việt Cộng, cấm xài. Phải xài từ của Cộng hòa mới được!
Mà nói hay viết theo mấy cụ thì mình cũng chịu. Mình chưa đến 35 tuổi, các cụ thì sáu mươi bảy mươi cả, từ ngữ các cụ dùng chẳng còn trong sách vở hay giao tiếp thời này, chẳng mấy ai còn nói hay viết như thế. Giới trẻ làm sao hiểu? Mà không xài thì các cụ giận, các cụ bảo mình là cộng sản, rồi các cụ tẩy chay báo”.
Tôi cười lăn cười bò. Cười xong, tôi nổi cái tật tò mò táy máy, đi kiếm thử coi chuyện ảnh nói có thiệt không.
Hóa ra là thiệt.
Hóa ra có cả một nhóm người sống ở hải ngoại luôn muốn tẩy chay tiếng Việt đang được dùng trong nước. Họ bảo đó là tiếng Việt của Việt cộng, do một bọn ngu dốt nghĩ ra hoặc chế chữ nên không được dùng. Tôi không rõ hàng ngày khi giao tiếp với người khác thì họ ăn nói thế nào, nhưng trong các diễn đàn về tiếng Việt thời Cộng hòa, nhóm người này yêu cầu chỉ dùng những từ ngữ được sử dụng dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Để xác định được từ đó có đúng là được dùng trong thời Việt Nam Cộng hòa hay không thì chỉ được dùng hai cuốn từ điển tiếng Việt xuất bản dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Đó là Việt Nam từ điển của Hội Khai trí Tiến Đức, xuất bản năm 1954 và từ điển Hán-Việt của Nguyễn Văn Khôn, cũng xuất bản trước 1975.
Số từ mà nhóm người này tẩy chay khá nhiều. Tôi xin liệt kê một ít.
Tôi chỉ liệt kê một ít từ ngữ phổ biến. Chứ nếu kê đủ chắc ngồi hết nhiều đêm.
Khách quan mà nói, có những từ ngữ đang phổ biến trong báo chí, văn bản tiếng Việt trong nước đúng là rườm rà, màu mè, sai nghĩa, hoặc không phù hợp ngữ cảnh, hoặc khô khan, hình thức. Thí dụ như “đẩy mạnh”, “tăng cường” “nâng cao” “tiến lên một bước”… áp dụng trong hầu hết các báo cáo của nhà nước Việt Nam và các bản tin mang tính thông tấn.
Để giữ gìn vẻ đẹp của tiếng Việt, chắc chắn cần nhiều người dùng tiếng Việt ở khắp nơi cùng nhau soi chiếu và chọn lọc.
Nhưng việc tẩy chay những từ ngữ mới trước đây mình chưa từng dùng, chỉ vì ám thị “ghét cộng sản, ghét Tàu” dẫn đến phủ nhận toàn bộ những gì đang được sử dụng trong nước, mới sinh ra trong nước hoặc “có hơi hám Trung Cộng” thì thật cực đoan và trẻ con.
Tôi nhớ có lần ông Tưởng Năng Tiến phải viết một bài dài để giải thích ông không phải người Tàu. Ông cũng phải giải thích rằng ông yêu quý thành tựu văn học, âm nhạc, nghệ thuật … của Trung Hoa nhưng không ủng hộ thái độ của chính quyền Bắc Kinh trong việc xâm lấn biển đảo của Việt Nam…, tóm lại, ông không phải “Hán nô” như có người suy luận trên bút danh của ông rồi áp đặt như thế.
Việc có những người lớn tuổi nuối tiếc chế độ Việt Nam Cộng hòa xong cương quyết quay lưng với ngôn ngữ trong nước như trong bảng kê nêu trên cũng y chang như việc quy kết “Hán nô” với ông Tưởng Năng Tiến, chỉ vì cái bút danh của ông nghe không giống tên người Việt thuần.
Những vị này đòi hỏi chỉ được dùng những từ ngữ đã được dùng trong thời Việt Nam Cộng hòa. Nhưng có lẽ các vị cũng quên mất, ngay cả trong thời Việt Nam Cộng hòa thì tiếng Việt tự nó cũng đã sinh ra và mất đi vô vàn từ ngữ mới, lối nói mới.
Thí dụ cụm từ “Bỏ đi Tám”. Theo tác giả Nguyễn Thị Hậu, nó sinh ra ở khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn vào thời Pháp thuộc, vào đầu thế kỷ 20. Tám là vị trí của người lao động bình dân trong hệ thống thứ bậc trong xã hội (chắc do một nhóm anh Hai nào đó trà dư tửu hậu mà thành). Ở đó quan quyền xếp thứ nhứt, dân công chức xếp thứ hai (thầy Hai thông ngôn, thầy Hai thơ ký…), thương gia Hoa kiều xếp thứ ba (chú Ba mại bản), dân giang hồ dao búa xếp thứ tư. Cũng là giang hồ nhưng thuộc loại đá cá lăn dưa hạ cấp hơn thì xếp thứ năm (thằng Năm móc túi giựt giỏ), thứ sáu là các thầy phú-lít (cảnh sát, police), mã tà. Thứ bảy là giới cho vay (anh Bảy Chà Và). Thứ tám, giới lao động bình dân đông đảo và nghèo nhứt. Thứ chín là giới “chị em”.
“Tám” nghèo và yếu tiếng nói nhứt trong giai tầng xã hội nên chuyện gì tranh chấp xảy ra thì Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy vẫn giành phần hơn. “Tám” thì lãnh đủ. Vậy nên phải ráng nhẫn nhịn, bỏ qua mà sống. “Bỏ qua đi Tám”! Hay tuyệt trần đời!
Ngoài ra, còn có “sức mấy”, “áp phe”, “âm binh”, “cô hồn các đảng”, “cà chớn chống xâm lăng” “cù lần ra khói lửa”, “cà na xí muội”, “cha chả”, “dân chơi Cầu ba cẳng”, “bận đồ khính” “một ly ông cụ”… Tiếng lóng bình dân còn có “bề hội đồng”(ăn hiếp tập thể, một nhóm người xúm nhau trị một người, dùng được trong rất nhiều hoàn cảnh, hay được dùng để chỉ vụ hiếp dâm tập thể)… Nhiều từ lắm, và nhiều từ hay lắm, thế nhưng bây giờ chính những người Việt lớn tuổi ở hải ngoại có còn dùng không?
Ngay ở trong nước, có những từ/lối nói chỉ cách đây một năm gần như thành câu cửa miệng, như “không phải dạng vừa đâu” “không phải đậu vừa rang”, thì sau một thời gian ngắn cũng đã “dạt trôi”, biến mất tăm mất tích, không ai còn nói nữa.
Ở miền Bắc Việt Nam, cách đây độ hai chục năm, muốn khen ai thật độc đáo, cá tính, giỏi giang xuất sắc trong lĩnh vực nào đó, giới trẻ trầm trồ “Nó tanh lắm”, “Khét mù”, “Khét lèn lẹt”, mặc dù người ấy rất thơm tho chứ chẳng tanh với khét gì cả.
Bây giờ, vẫn nội dung ấy thì gọi là “siêu” “chất” “chất vãi” “chất vãi chưởng”, hoặc mạnh mẽ hơn: “trất’ssssss”. “Trất” với dấu sở hữu cách tiếng Anh biến thể đằng sau chẳng có ý nghĩa gì cả, nhưng đó lại là sắc thái biểu thị rằng anh/cô/đứa ấy nó xuất sắc, độc đáo, cá tính đến tột đỉnh, “đỉnh của đỉnh”.
“Đỉnh của đỉnh” về ngữ nghĩa là không chính xác. Đã đỉnh thì chỉ có một chứ lấy đâu ra hai? Nhưng về sắc thái thì nó hết sức thú vị, vì biểu thị thái độ khâm phục, khen ngợi, công nhận… đến mức tột cùng, không thể chê bai một tí tẹo nào nữa.
Cái tươi mới, tung tẩy, biến hóa, sinh động của một sinh ngữ chính là ở những biến thể như vậy. Bởi vì ngoài ngữ nghĩa, nó còn thể hiện một cách tinh vi các cung bậc của thái độ và cảm xúc.
Khi trực tiếp gặp mặt, ngoài tiếng nói, còn có ánh mắt, nụ cười, ngôn ngữ hình thể bổ sung và làm rõ ý nghĩa của từ ngữ. Thí dụ cùng hai chữ “Thấy ghét” nhưng nói với cái nguýt mắt âu yếm, cái phát nhẹ vào vai, đôi môi hơi bĩu ra nũng nịu, chữ “ghét” kéo dài, âm điệu lên xuống trầm bổng… thì nội dung chính xác của nó lại là “Thương rồi á nha”. Còn nếu cộc lốc “Thấy ghét” kèm cái lườm hay cái nhìn trừng trừng khó chịu, thì phải xách quần chạy cho mau chớ xáp xáp vô là ăn tát.
Nhưng trong thời kỳ giao tiếp rất nhiều bằng comment và chat trên mạng xã hội, toàn chữ là chữ như bây giờ, thì phải làm sao để “Thấy ghét (thấy thương)” và “Thấy ghét (thấy ghét)” phân biệt ra, để người bên kia không hiểu lầm ý thực của mình?
Khi chỉ giao tiếp qua chữ viết, những “ý tại ngôn ngoại” biểu cảm qua ánh mắt, nụ cười, sự ngúng nguẩy của đôi vai…hay những điều thú vị như thế đều gần như mất hết. Do vậy mà các hãng sở hữu mạng xã hội phải luôn luôn vẽ ra thật nhiều icon (biểu tượng) sống động, để mà khi chữ viết thất bại, thì người ta gõ thêm một cái icon bổ sung hoặc thay thế. Thậm chí còn phải dùng cả những hình ảnh động để biểu cảm và chính xác hơn.
Thí dụ một cô gái chat với chàng trai “Anh giúp em nha” và “Anh giúp em nhaaaaaaa”. Nội dung y chang nhau, nhưng chữ “nha” kéo dài ở câu sau cũng y như khi cô kéo dài giọng nói với chàng trai vậy. Nó thể hiện sự thân mật, nài nỉ, nhõng nhẽo… mà câu trước không có, hoặc không thể hiện ra được.
Hay, hai ông đang cãi nhau kịch liệt trên mạng, mà một ông chốt: “Vâng, của nhà bác tất. Chào bác em ngược” thì không phải ông nọ đang nhường của cải cho ông kia, mà là bỏ cuộc, tuyệt vọng vì thấy bên kia bướng quá không thể thuyết phục được, hoặc không chấp nữa, cóc quan tâm nữa, “mày muốn nói gì cũng được, bố dí vào”.
Bởi vì ngôn ngữ là sinh ngữ, có sinh ra và mất đi, có chuyển đổi, lai ghép, có trào lưu và thoái trào. Những thay đổi này diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ ở cộng đồng có nhiều người cùng nói thứ tiếng đó. Nó có thể được sinh ra bất thần trong một câu nói, một cuộc trò chuyện giữa bất cứ ai, ở bất cứ đâu, từ đường phố đến “triều đình”, hay trong một tác phẩm được thai nghén nhiều năm. Chỉ cần nó giàu biểu cảm, mới lạ, hài hước hoặc thông minh, hoặc chỉ ngồ ngộ, vui tai… là đã đủ để phổ biến.
Với công cụ internet, mọi khoảng cách ngày càng thu ngắn lại. Một từ ngữ, lối nói vừa phát sinh trong một lũy tre bên này trái đất ngay lập tức được truyền đến một quán bar bên kia trái đất. Và nếu những người ở đó vẫn thấy nó giàu biểu cảm, ngồ ngộ, mới lạ, hay hay… thì họ dùng. Nếu sự thích thú đó ngắn hạn thì từ mới ấy, hoặc nghĩa mới của từ cũ ấy sẽ chết đi. Đời sống của ngôn ngữ cứ trôi chảy như vậy, nó phản ảnh sự phong phú của xã hội.
Chính vì thế mà phải tách bạch thái độ chính trị và những gì không liên quan đến nó. Dưới bất cứ thể chế nào, tiếng Việt vẫn cứ là tiếng Việt, nó được sinh ra từ người sử dụng, được phát triển lên nhờ những người sử dụng thông minh. Cộng sản vẫn có thể viết và nói duyên dáng, thu hút. Cộng hòa vẫn có thể viết và nói ngô nghê. Dưới bất cứ thể chế nào thì tiếng Việt vẫn có xấu, có đẹp, có trong sáng, có tục tằn, có trau chuốt và có thô thiển.
Gượng ép gán thái độ chính trị vào cho những từ ngữ mà trước giờ mình chưa từng thấy, như “từ ngữ của Việt cộng”, “từ ngữ của Tàu cộng” là công việc rất trái tự nhiên, rất mệt mỏi và khiên cưỡng. Nó chỉ khiến người ta xơ cứng, quẩn quanh, già cỗi, lạc hậu và tự cô lập với cộng đồng.
Nếu thực tâm muốn giữ tiếng Việt cho trong sáng và giàu có, trước nhất phải giữ cái đầu cởi mở, chọn lọc, tinh tế và thông minh. Không thể bắt nó đóng băng, làm một cái xác sống, sống bằng hoài niệm cổ hủ. Đó là một việc vô nghĩa chẳng khác gì muốn cái cây tươi tốt nhưng lại chặt hết rễ của nó.
*Bài viết không thể hiện quan điểm của RFA
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alexandre_de_Rhodes
Tham khảo:
BÀN LOẠN CHỮ NGHĨA CÙNG CÁC HỌC “GIẢ” HẢI NGOẠI
Quyền Được Biết
Thời gian vừa qua nổi lên việc ông tiến sỹ loài khỉ Bùi Hiển trình làng cái phiên bản cải tạo chữ Quốc ngữ không giống ai của mình, Tây không ra Tây, Tàu không ra Tàu làm cho bàn dân thiên hạ ầm ào phản đối, thế nhưng trong làn sóng đó lại có cái được gọi là “Bảo tồn văn hóa Việt” của những người sinh sống trong quốc gia VNCH đưa ra, tuy nhiên nếu nhìn vào bảng phân tích dưới đây về hai loại chữ trước và sau năm 1975 thì chúng ta cần phải xem xét lại một cách khách quan về cái được gọi là ngôn ngữ của miền nam Việt Nam trước năm 1975.
Trích nguồn không ghi tên tác giả:
TỪ NGỮ VC TỪ NGỮ VNCH
Ấn tượng: Đáng ghi nhớ, đáng nhớ
Bác sỹ / Ca sỹ Bác sĩ / Ca sĩ
Bang: Tiểu bang (State)
Bắc bộ / Trung bộ / Nam bộ Bắc phần / Trung phần / Nam phần
Báo cáo: Thưa trình, nói, kể
Bảo quản: Che chở, giữ gìn, bảo vệ
Bài nói: Diễn văn
Bảo hiểm (mũ): An tòan (mũ)
Bèo: Rẻ (tiền)
Bị (đẹp): Không dùng động từ “bị;” chỉ dùng tĩnh từ (đẹp)
Bồi dưỡng (hối lộ?)I: Nghỉ ngơi, tẩm bổ, săn sóc, chăm nom, ăn uống đầy đủ
Bóng đá: Túc cầu
Bức xúc: Dồn nén, bực tức
Bất ngờ: Ngạc nhiên (surprised)
Bổ sung: Thêm, bổ túc
Cách ly: Cô lập
Cảnh báo: Báo động, phải chú ý
Cái Alô Cái điện thọai (telephone receiver)
Cái đài: Radio, máy phát thanh
Căn hộ: Căn nhà
Căng (lắm): Căng thẳng (intense)
Cầu lông: Vũ cầu
Chảnh: Kiêu ngạo, làm tàng
Chất lượng Phẩm chất tốt (chỉ đề cập phẩm “quality,” không đề cập lượng “quantity”)
Chất xám: Trí tuệ, sự thông minh
Chế độ: Quy chế
Chỉ đạo: Chỉ thị, ra lệnh
Chỉ tiê: Định suất
Chủ nhiệm: Trưởng ban, Khoa trưởng
Chủ trì: Chủ tọa
Chữa cháy: Cứu hỏa
Chiêu đãi: Thết đãi
Chui: Lén lút
Chuyên chở: Nói lên, nêu ra
Chuyển ngữ Dịch
Chứng minh nhân dân: Thẻ Căn cuớc
Chủ đạo: Chính
Co cụm: Thu hẹp
Công đoàn: Nghiệp đoàn
Công nghiệp: Kỹ nghệ
Công trình: Công tác
Cơ bản: Căn bản
Cơ khí (tĩnh từ!): Cầu kỳ, phức tạp
Cơ sở: Căn bản, nguồn gốc
Cửa khẩu: Phi cảng, Hải cảng
Cụm từ: Nhóm chữ
Cứu hộ: Cứu cấp
Diện: Thành phần
Dự kiế: Phỏng định
Đại học mở: (??? : Chịu thua không thể hiểu được.)
Đào tị: Tị nạn
Đầu ra / Đầu vào: Xuất lượng / Nhập lượng
Đại táo / Tiểu táo: Nấu ăn chung, ăn tập thể / Nấu ăn riêng, ăn gia đình
Đại trà: Quy mô, cỡ lớn
Đảm bảo: Bảo đảm
Đăng ký: Ghi danh, ghi tên
Đáp án: Kết quả, trả lời
Đề xuất: Đề nghị
Đội ngũ: Hàng ngũ
Động não: Vận dụng trí óc, suy luận, suy nghĩ
Đồng bào dân tộc: Đồng bào sắc tộc
Động thái: Động lực
Động viên: Khuyến khích
Đột xuất: Bất ngờ
Đường băng: Phi đạo
Đường cao tốc: Xa lộ
Gia công: Làm ăn công
Giải phóng: Lấy lại, đem đi… (riêng chữ này bị VC lạm dụng rất nhiều)
Giải phóng mặt bằng: Ủi cho đất bằng
Giản đơn: Đơn giản
Giao lưu: Giao thiệp, trao đổi
Hạch toán: Kế toán
Hải quan: Quan Thuế
Hàng không dân dụng: Hàng không dân sự
Hát đôi: Song ca
Hát tốp: Hợp ca
Hạt nhân (vũ khí): Nguyên tử
Hậu cần: Tiếp liệu
Học vị: Bằng cấp
Hệ quả: Hậu quả
Hiện đại: Tối tân
Hộ Nhà: Gia đình
Hộ chiếu: Sổ Thông hành
Hồ hởi: Phấn khởi
Hộ khẩu: Tờ khai gia đình
Hội chữ thập đỏ: Hội Hồng Thập Tự
Hoành tráng: Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ
Hưng phấn: Kích động, vui sướng
Hữu hảo: Tốt đẹp
Hữu nghị: Thân hữu
Huyện: Quận
Kênh: Băng tần (Channel)
Khả năng (có: Có thể xẩy ra (possible)
Khẩn trương: Nhanh lên
Khâu: Bộ phận, nhóm, ngành, ban, khoa
Kiều hối: Ngoại tệ
Kiệt suất: Giỏi, xuất sắc
Kinh qua: Trải qua
Làm gái: Làm điếm
Làm việc: Thẩm vấn, điều tra
Lầu năm góc / Nhà trắng Ngũ Giác Đài / Tòa Bạch Ốc
Liên hoan: Đại hội, ăn mừng
Liên hệ: Liên lạc (contact)
Linh tin: Vớ vẩn
Lính gái: Nữ quân nhân
Lính thủy đánh bộ: Thủy quân lục chiến
Lợi nhuận: Lợi tức
Lược tóm: Tóm lược
Lý giải: Giải thích (explain)
Máy bay lên thẳng: Trực thăng
Múa đôi: Khiêu vũ
Mĩ: Mỹ (Hoa kỳ,USA)
Nắm bắt: Nắm vững
Nâng cấp: Nâng, hoặc đưa giá trị lên
Năng nổ: Siêng năng, tháo vát
Nghệ nhân: Thợ, nghệ sĩ
Nghệ danh: Tên (nghệ sĩstage name) dùng ngoài tên thật
Nghĩa vụ quân sự: Đi quân dịch
Nghiêm túc: Nghiêm chỉnh
Nghiệp dư: Đi làm thêm (2nd job / nghề phụ, nghề tay trái)
Nhà khách: Khách sạn
Nhất trí: Đồng lòng, đồng ý
Nhất quán: Luôn luôn, trước sau như một
Người nước ngoài: Ngoại kiều
Nỗi niềm (tĩnh từ!): Vẻ suy tư
Phần cứng: Cương liệu
Phần mềm: Nhu liệu
Phản ánh: Phản ảnh
Phản hồi: Trả lời, hồi âm
Phát sóng: Phát thanh
Phó Tiến Sĩ: Cao Học
Phi khẩu: Phi trường, phi cảng
Phi vụ: Một vụ trao đổi thương mại (a business dealthương vụ)
Phục hồi nhân phẩm: Hoàn lương
Phương án: Kế hoạch
Những sai lầm trong cách diễn giải VNCH theo bảng trên:
- Bác sỹ = Bác sĩ: miền nam VN trước năm 1975 chỉ dùng y dài chứ không dùng i như người miền bắc, vì thế câu này đã đặt ngược chỗ.
- Báo cáo = thưa, trình, nói, kể: sai hoàn toàn vì báo cáo dành cho các cơ quan, đơn vị, công ty, không ai nói thưa, trình, nói kể trong lĩnh vực việc làm, thưa cái gì, trình cái gì, nói cái gì và kể cái gì có thể hơn báo cáo bằng miệng hay văn bản.
- Bài nói = diễn văn: hai cái khác nhau, bài nói có thể nói ở tổ dân phố, ở phường , khóm, hội đoàn còn diễn văn trang trọng hơn dành cho các lãnh đạo hay nguyên thủ, không ai nói rằng tổ trưởng tổ dân phố hôm nay có bài diễn văn hoặc ngược lại không ai nói rằng Tổng Thống G. Bush có bài nói chuyện.
- Mũ bảo hiểm = Mũ an toàn: nghe hơi ngố vì không ai dùng chữ an toàn cho cái mũ, đội để làm gì? Để bảo vệ cái não thì nếu dùng đúng sẽ phải gọi là mũ bảo vệ (tránh nguy hiểm).
- Bất ngờ = ngạc nhiên: sai be bét vì bất ngờ chỉ việc diễn ra một cách bất thình lình còn ngạc nhiên chưa hẳn lúc nào cũng phải bất ngờ.
- Căn hộ = căn nhà: (?) hộ khác với nhà, tại Việt Nam căn hộ dùng để chỉ các phòng tập thể, các nhà chung cư còn nhà biệt lập, nhà phố cũng được gọi là căn nhà, cũng như tại Mỹ có apartment, house…
- Chất xám = trí tuệ, sự thông minh: cộng sản dùng chữ chất xám để nói cái cao hơn trí tuệ, sự thông minh, cái họ nói đó là đội ngũ trí thức, những nhân tài ví dụ “nạn chảy máu chất xám” có ý nghĩa là những nhân tài của đất nước đã đội nón ra đi chứ không nói là trí tuệ, sự thông minh đã bỏ nước ra đi.
- Chuyên chở = nói lên, nêu ra: (?!) chuyên chở thì chở cái gì còn diễn giải là nói lên, nêu ra thì nói lên, nêu ra cái gì? Sai về cách diễn giải.
- Đội ngũ = hàng ngũ: hai chữ gần giống nhau nhưng khác nhau về ý nghĩa, đội ngũ chỉ được dùng như: “Đội ngũ nghiêm chỉnh đứng chào cờ” chứ không ai nói hàng ngũ cả, hàng ngũ chỉ có thể dùng cho những câu trong lễ duyệt binh như” hàng ngũ binh sỹ nghiêm trang lướt qua khán đài…”
- Đồng bào dân tộc = Đồng bào sắc tộc: dân tộc bao gồm các sắc dân đang sống tại Việt Nam còn sắc tộc chỉ ra cụ thể sắc dân của họ ví dụ như người Ê Đê, Bana, Tày, Nùng, Giao…
- Động thái = động lực: sai hoàn toàn, động thái chỉ hành vi có thể thấy, động lực chỉ hành vi không thể thấy, ví dụ:” Động lực làm giàu của anh ta thật đơn giản” không ai dùng động thái làm giàu hoặc: ” động thái của anh ta thật hung dữ…”.
- Đường cao tốc = xa lộ: sai, vì cao tốc là đường phải chạy theo tốc độ bắt buộc tương đương với freeway tại Mỹ còn xa lộ tuy có thiết kế gần giống đường cao tốc nhưng tốc độ không bắt buộc.
- Giải phóng mặt bằng = ủi cho đất bằng: (!?) không hiểu đầu óc của dịch giả này có bình thường không hay ở nhà thương điên mới ra, giải phóng mặt bằng là lấy lại mặt bằng từ các lề đường, phố chợ, khu dân cư còn ủi cho đất bằng phải gọi là “san lấp mặt bằng”.
- Hạch toán = kế toán: sai nghiêm trọng- hạch toán là tính toán, thống kê, kiểm kê số liệu trước hoặc sau một kế hoạch, công trình nhằm cho ra kết quả cụ thể còn kế toán là một nghề nghiệp của những người thống kê các con số tại Việt Nam.
- Huyện = Quận: hai cái khác nhau, huyện chỉ một đơn vị vùng làng quê, một vùng đất diện tích nhỏ còn quận to hơn, cả hai đều đang được sử dụng ví dụ quận 1,2,3 Tân Phú, Bình Tân, huyện Củ chi, Bình Chánh…
- Liên hệ = liên lạc: khác nhau, liên hệ chỉ ra những mối liên quan cụ thể ví dụ: “Công ty X liên hệ Sở…để xin giấy phép hoạt động…” còn liên lạc chỉ về sự giao tiếp qua thư từ, điện thoại, báo chí…
- Lợi nhuận = lợi tức: khác nhau - lợi nhuận có thể nhìn thấy cụ thể còn lợi tức tuy cũng giống như thế nhưng ở mức cao hơn ví dụ: “lợi nhuận của cửa hàng là….” Còn lợi tức thì được dùng như: “lợi tức từ công ty hay tài khoản tiết kiệm là….”
- Nhà khách = khách sạn: sai nghiêm trọng, nhà khách là nhà dành cho khách đến làm việc, tham quan nghĩ ngơi do các công ty, cơ quan cs xây dựng còn khách sạn là nơi kinh doanh thuần túy dành cho bất cứ ai muốn mướn.
Trên là những từ dịch nghĩa sai của dịch giả nào cho rằng mình dùng ngôn ngữ VNCH tuy nhiên sai lầm đó không nghiêm trọng bằng vấn đề đặt ra dưới đây:
Rất nhiều chữ của VNCH dùng xuất phát từ Hán-Việt!
Điển hình: Túc cầu - Radio (Tiếng Anh) - vũ cầu - cứu hỏa - phi cảng, hải cảng - ghi danh - phi đạo - Hội Hồng Thập Tự - Ngũ Giác Đài, Tòa Bạch Ốc - Thủy quân lục chiến - trực thăng - khiêu vũ - cương liệu, nhu liệu.
Những từ cộng sản dịch đúng thuần chất tiếng Việt:
- đá banh - cầu lông - chữa cháy - sân bay - bến tàu - đường băng - Lầu Năm Góc - Nhà Trắng - Lính thủy đánh bộ - múa đôi - phần cứng - phần mềm.
Và người Việt trước năm 1975 tại hải ngoại vẫn tiếp tục dùng những chữ vay mượn như: Hội Ái Hữu (hội bạn bè thân) - hỏa tiển (tên lửa) - ghi danh (điền tên) - phi cơ (máy bay) đệ nhất, nhị, tam, tứ, lục, chu niên…những từ mà họ đã dùng trước năm 1975.
Điều này nói lên những kẻ được gọi là nhà ngôn ngữ học, tiến sỹ, nhà bảo tồn văn hóa Việt hải ngoại chỉ là những kẻ tào lao, đầu óc được mặc định sẵn và nếu thay đổi thì họ bị dị ứng la toáng lên, chụp mũ người nào không đồng ý với mình là cộng sản, họ cũng không khác gì bọn cộng sản khi cố tình không nhận ra mình đang dùng một loại ngôn ngữ được dịch ra từ ngôn ngữ của bọn kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam là tiếng Hán. Họ chỉ là những con lừa bị bịt mắt và mò mẫm trong cái hố sâu của mình tự tạo ra.
Họ cố tình áp đặt luồng tư duy cũ mèm của mình trong thế kỷ 20 trong khi ngày nay là năm thứ 18 của thế kỷ 21, thế giới chuyển động từng ngày và ngôn ngữ cũng không ngoại lệ, tiếng Việt được người dân sử dụng hàng ngày và loại bỏ, chế biến theo nhu cầu giao thiệp ví dụ miền bắc có chữ “vãi lọ” nói lên sự quá sức tưởng tượng thì ngày nay đã được thế bằng chữ “vãi luyện” khi tên Lê văn Luyện - một sát thủ giết người hàng loạt khi còn ở lứa tuổi thiếu niên và vãi luyện đã trở thành chữ phổ thông trong nước ai cũng hiểu, ngoài ra theo dòng thời gian người dân còn sáng chế hay cắt xén để tạo ra những chữ khác như: bùng (trốn), chập (nói về quan hệ), xử (chém, giết, đánh), cực (cực kỳ)…
Tất cả đều là kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam chỉ có điều chúng ta cảm thấy bị dị ứng khi nghe người miền bắc nói chuyện ví dụ: ”bác tớ cực giàu” hay cực khoái, cực sướng…họ cố tình bỏ chữ nhằm đơn giản hóa nhưng lại làm cho người nghe khó chịu, tuy nhiên với hơn 800 tờ báo tuyên truyền, hơn 65 đài truyền hình, hàng trăm đài phát thanh đều sử dụng thì mức độ tiêm nhiểm vào đầu óc rất…cực (!) cao.
Vấn đề chữ nghĩa Việt Nam bị méo mó dị dạng là do người dùng chứ con chữ không có tội, không có chữ nào là chữ của cộng sản và cũng không có chữ nào là của Cộng Hòa, tất cả đều được giáo sỹ Alexandre de Rhodes sáng tạo ra cho dân tộc Việt Nam dùng được gọi là chữ Quốc ngữ, chỉ có vấn đề là cách dùng của cộng sản thường sai và họ hay dùng những chữ có tính cách tuyên truyền như: quyết tâm, đoàn kết, nhất trí vv và vv…
Vì thế khi quy chụp những người nói những từ mà cộng sản hay dùng là cộng sản chỉ thể hiện tính hẹp hòi tự tôn của một số người, tác hại của nó không hề nhỏ khi ngăn cách, chia đôi giữa người Việt với người Việt, không tạo được sự đoàn kết cao để có thể lật đổ cộng sản, ngoài ra khi chỉ trích chữ cộng sản nhưng lại dùng những từ vay mượn của Hán Việt thì những người này chỉ là loại trí thức rởm, trí thức đầu ruồi, ba xu.
Hãy nhìn tiếng Anh, ngôn ngữ chính của thế giới mà chúng ta đang sử dụng hàng ngày nó có thuần Anh không?
Hoàn toàn không!
Tiếng Anh là sự lai tạp của nhiều ngôn ngữ Anh, Pháp, Thụy Điển, Đức… họ mở rộng ra để tiếp nhận nhiều luồng văn hóa khắp thế giới, chọn lọc được những tinh túy nhất để sau cùng trở thành tiếng nói chung của nhân loại còn tiếng Việt, chữ Quốc ngữ chỉ có ba miền nam - trung - bắc mà còn chia rẻ, chống phá, chụp mũ, vu khống thì có lẽ người Việt Nam là một dân tộc ích kỷ, hẹp hòi nhất thế giới, tất nhiên kết quả cuối cùng sẽ là mất nước, diệt vong, và sau 100 năm nữa sẽ không còn tồn tại chữ Quốc ngữ mà thay vào đó là tiếng Quan Thoại, Phổ Thông…
Để kết thúc bài viết này xin vào vấn đề danh xưng của người Việt hải ngoại khi có nhiều bài báo cho rằng mình là: “Người Việt Quốc Gia”!
Người Việt Quốc Gia là cái gì? Không ai biết thậm chí ngay kẻ tự hào cũng không thể lý giải một cách rạch ròi về danh xưng của mình?
Người Việt hải ngoại chỉ có những con người sau:
- Người Việt đào thoát cộng sản ra đi trước thời điểm 30/04/1975.
- Người Việt tỵ nạn cộng sản rời Việt Nam bằng cách vượt biên.
- Người Việt không chấp nhận cộng sản ra đi bằng các diện tỵ nạn chính trị, diện HO của các cựu sỹ quan VNCH.
- Người Việt đi không vì lý do chính trị, chỉ đi đoàn tụ do gia đình bảo lãnh.
- Người Việt đi Mỹ theo diện kết hôn, đầu tư, rửa tiền, du học…
- Người Việt Cỏ Đuôi Chó rời Việt Nam vì đói quá nhưng sau khi cộng sản bố thí cho vài cục xương thừa là há miệng ra đớp như những con chó đói.
Không có cái được gọi là Người Việt Quốc Gia mà chỉ có những người Việt sinh ra, lớn lên hấp thụ nền giáo dục nhân bản và khai phóng của hệ thống giáo dục trong thời VNCH, những người đã từng phục vụ trong bộ máy chính quyền quân sự và dân sự của nước VNCH miền nam Việt Nam trước 1975, họ không bao giờ vỗ ngực xưng tên mình là Người Việt Quốc Gia mà họ chỉ nhận mình là những kẻ Vong Quốc, người tỵ nạn.
Vì thế cái danh dưng “Người Việt Quốc Gia” nó cũng rởm đời, hợm hĩnh kệch cởm như chủ nhân của nó - một loại thùng rỗng kêu to mà thôi.
https://www.quyenduocbiet.com/a4742/1