Sách Đại Nam Thực lục Tiền biên, quyển 10 ghi chép như sau: Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 100 cồn cát... Chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa châu... Đến đầu thế kỷ 17 Chúa Nguyễn thành lập các đội Hoàng Sa khoảng bảy mươi người, lấy từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ba đêm thì tới nơi, và ở lại cho đến tháng Tám.
Trong sử liệu của Học giả Lê Quí Đôn (1726-1784), thì Vạn Lý Trường Sa là tên chữ để gọi chung cho cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng cái tên Bải Cát Vàng (Hoàng Sa) thì được quen gọi hơn. Ngay cả các bản đồ trong Thiên Nam Tứ Lộ Chí và tài liệu của Trung Quốc, như Toản Tập An Nam Lộ của Đỗ Bá Công 1686, năm Chính Hòa Thứ 7 khi nói tới hai quần đảo này của Việt Nam, cũng đã dùng cái tên Bải Cát Vàng để gọi.
Và những gì Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Dôn (1726-1784), Và Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1782-1840) ghi chép, thì đội Hoàng Sa đã có hoạt động giữ đảo từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), cho đến thời vua Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi 1802, thì nhiệm vụ này mới được giao cho thủy quân triều đình đảm trách. Như vậy Huyện đảo Lý Sơn, hàng năm xuất phát dân binh đi giữ đảo, kéo dài có hơn hai thế kỷ!
Người bạn lính cũ Võ Mà của Tư tui, anh gọi quê cha mình bằng mấy tiếng thân thương Cù lao Ré, cái tên bình dị như những người dân làng chài ven biển này, nơi dừng chân của ông cha họ năm xưa lúc theo Chúa Nguyễn mở cõi phương Nam, và cũng từ những ngày rất sớm đó đến nay biết bao đời, họ vẫn nối tiếp nhau ra khơi xuôi Vạn Lý… Nhớ năm mươi năm trước theo bạn về An Vĩnh, thắp nhang nơi nhà thờ họ Võ, để thấy người dân làng chài nhỏ bé này, lòng họ đầy tự hào về cha ông, những dân binh xưa đi trấn đảo giữ vẹn biển bờ nước Nam.
-Có ai xuôi Vạn lý nhắn đôi câu giúp nàng,
Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng
Trời chuyển mưa trong tiết tháng Ba…
Theo lệnh Vua, tháng Ba dân binh Lý Sơn giong thuyền ra Vạn Lý Hoàng Sa Châu làm lính đảo, và có phải câu chuyện những người ra đi hổng trở lại, mà người nhạc sĩ tài hoa (Lê Thương) như từng thú nhận, đã xúc động bởi tượng đá Vọng Phu ở Phú Yên (Tuy Hòa) trên đường vô Nam, thương cảm người trông chồng hóa đá, mà viết Ai Xuôi Vạn Lý:
-Nên núi non thương tình, kéo nhau đi thăm nàng
Nhiều đồi rủ nhau kéo thành đảo xa, Vạn lý xuôi nước Nam…
Tháng Ba ra đi tháng Tám quay về, những kẻ hổng về để có người đứng trông đến hóa đá, đó là chuyện tích! Còn chuyện người dân binh đội Hoàng Sa, những người lính đảo đầu tiên của nước Việt ra khơi Vạn Lý, ngoài lương thực được cấp sáu tháng, họ mang theo thẻ bài ghi tên tuổi, đôi chiếu, 7 nẹp tre cùng dây mây, những vật cần để thủy táng, xác bó chiếu nẹp tre cột mây. Nhưng mấy khi trôi được về đất liền, để tưởng nhớ họ vẫn là những ngôi ‘mộ gió’, ngày nay xây mộ gió hương khói cho người thân bỏ xác ngoài biển, đã thành tục của người dân Lý Sơn.
Lịch sử giữ nước của dân Việt, đầy rẫy cái đẹp hào hùng, nhưng hình ảnh người dân binh bảo vệ biển đảo Hoàng Sa, khi ra đi đã chuẩn bị sẵn cho mình cả cái chết, lại mang đậm nét bi tráng. Giữ gìn bờ cõi ông cha là nhiệm vụ cao quý danh dự, nhưng ngươi cộng sản cho là thế giới đại đồng mới vĩ đại, còn quan niệm biên giới, chủ nghĩa dân tộc là lỗi thời (?!), nên với HCM: Mấy cái đảo hoang ở ngoài khơi đó là của ai bác không rõ lắm, nhưng đó chỉ là mấy hòn đá hoang, toàn phân chim… Nếu các đồng chí Trung Quốc muốn thì cứ cho họ đi!
Cùng cái tâm như Hồ, mà những con người cộng sản đời đầu đã có những hành động, phải nói thẳng là bán nước để mưu cầu quyền lực! Ngày 15/06/1956, tức là chỉ mới hai năm sau ngày tái lập chính phủ tại Hà Nội, thứ trưởng ngoại giao Ung Văn Khiêm nói với Li Zhimin, xử lý thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt: Theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc (?). Vậy những gì xảy ra hôm nay, chỉ là những hệ quả mua bán mờ ám, của hai thầy trò Hán phỉ từ trong quá khứ!
Chuyện bán buôn có giấy trắng mực đen hẳn hoi: Ngày 04/09/1958, Chính phủ TQ tuyên bố bề rộng của lãnh hải TQ là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, bao gồm: Quần Đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa… Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ký công hàm gởi cho Chu Ân Lai rằng: Chính phủ nước VN Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 04/09/1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải.
Công hàm (14/09/1958) bán nước này, Nguyễn Mạnh Cầm thứ trưởng ngoại giao của nhà nước xã nghĩa ngụy biện: Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi (ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc (Thông Tấn Xã VN 03/12/1992).
Nói là vì độc lập đất nước, sao lại bỏ đi sự toàn vẹn lãnh thổ, hai quần đảo đó hổng là máu thịt nước Việt sao (?), trong khi theo tài liệu ‘Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa’ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, 18/02/1980), thì vấn đề này chính Hà Nội đã ‘dàn xếp’ trong quá khứ. Riêng Phạm Văn Đồng trong một ấn bản của Tạp chí Kinh Tế Viễn Đông ngày 16/03/1979 trang 11, cho biết công hàm được ký chỉ vì: Lúc đó là thời kỳ chiến tranh, nên phải nói như vậy (sic).
Biển đảo của ông cha, Vạn Lý Trường Sa trên giấy tờ đã đổi chủ từ ngày đó, nay đúng sáu mươi năm, còn trên thực tế vì nó là sở hữu của VNCH, cho đến tháng 02/1972, Hoa Kỳ bắt tay đi đêm với Tầu cộng, và tháng 06/1972 qua ngầm thỏa thuận, thể chế tự do VNCH bị lên án tử, và rồi Hiệp định Paris ký ngày 27/01/1973 lập lại hòa bình. Nhưng chiến tranh chưa chấm dứt, và trong hiệp đồng tác chiến, thày trò Hán phỉ căng miền Nam ra đánh, trò nổ súng đều khắp trên đất liền, ngoài khơi ngày 19/01/1974 thầy chiếm lấy Hoàng Sa.
Từ ngày cắt mạng thành công, biển đảo đảng đã bán cho Tầu cộng nên hổng còn là biển nhà, nhưng với ngư dân Lý Sơn thì Hoàng Trường Sa vẫn là ngư trường truyền thống, họ cố bám mặc dù từ những năm cuối thập niên 2000 đến nay, luôn bị hải giám Tầu cộng truy sát khốc liệt. Trong khó khăn họ đã giong thuyền đi xa hơn, rồi để thoát khỏi tay Tầu cộng truy sát, mà người dân Lý Sơn lại vướng cảnh vi phạm lãnh hải, dẫn đầu về số lượng ngư dân Việt bị các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á tống giam, tịch thu ghe, ngư cụ.
Nhà nước hổng chút giúp đỡ, ngoài việc hướng dẫn ngư dân cách tự cứu mình và cứu lẫn nhau, nghe câu nói của Lê Đức Anh là rõ: Nhà nước giáo dục ngư dân, cho họ biết giới hạn, và nơi được đánh bắt (?!). Người dân và nhà nước hai hình ảnh đối chọi, nên hổng lạ nhà nước đã hai lần ngoan ngoãn đóng cửa mỏ dầu Cá rồng đỏ khi quan thầy hổng vui, còn dân Lý Sơn mới đây thôi, ngày 22/04/2018, hai tàu cá QNg 90332TS, QNg 90559TS, một chìm một hư hại nặng, do bị hải giám 45103 và 46001 của Tầu cộng đâm húc.
Như mọi bận, dù ngư dân đã nói rõ là ghe của họ bị hải giám Tầu cộng húc chìm, nhưng truyền thông (báo Dân Trí) nhà nước chỉ đăng số hiệu tàu mà né tránh gọi tên, mần vậy chửi hèn là còn nhẹ. Tin thế giới, Thượng viện Canada ngày 24/04/2018, đã thông qua kiến nghị về biển Đông của một thượng nghị sĩ (Ngô Thanh Hải), thúc giục chính phủ Canada phải có các bước đi cần thiết, nhằm giảm căng thẳng, khôi phục hòa bình, ổn định biển Đông.
Khách quan đứng ngoài, thiên hạ cũng đã thấy được cái ẩn tình trong chuyện biển đảo nước Việt giữa hai thầy trò Hán phỉ, từ vụ thảm sát Gạc Ma 14/03/1988, đến những bản án thật nặng, cho anh chị em đấu tranh (Hoàng Đức Bình, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh) cùng ngư dân sáu tỉnh miền Trung đòi một biển sạch. Và rõ nét nhứt là hàng chục năm qua, đã bỏ mặc tài sản tánh mạng ngư dân Việt, trên biển Đông cho Tầu cộng mặc tình sinh sát.
Biết rằng dù bị truy sát, bị húc chìm ghe, bị bắt đòi tiền chuộc, ngư dân Lý Sơn vẫn gắn bó với ngư trường truyền thống Hoàng Trường Sa. Nay nhà nước xã nghĩa đã có cách giải quyết đó là san bằng ‘đất linh Lý Sơn’, và dự án ‘Khu du lịch nghỉ dưỡng Bình Châu-Lý Sơn’ đã ra đời, bao gồm hai đảo Lý Sơn, An Bình với hàng ngàn héc ta đất thuộc các xã Bình Châu, Bình Hải, Bình Hòa, Bình Phú của huyện Bình Sơn với tổng diện tích 4018ha.
Ngày 17-18/04/2018 quan đỏ Quảng Ngãi ra ‘thông báo hỏa tốc’ số 144/TB-UBND, về phương án quy hoạch giai đoạn 1 giao 1.243 ha cho tập đoàn FLC, để kịp khởi công ngày 19/05/2018. Đồng thời ban hành tiếp văn bản 2077/UBND-CNXD, yêu cầu các ban ngành nghiên cứu theo hướng cho phép FLC triển khai giai đoạn 2… Hèn gì đóng dấu hỏa tốc đỏ chói, chưa khởi công giai đoạn 1, mà đã lo chuyển giao đất cho giai đoạn 2, mần dư luận đặt nhiều câu hỏi!
Ai sẽ là chủ dự án sau này? Cái đó thì dễ trả lời, vốn hổ trợ cho FLC, ngoài năm ngân hàng tại VN, chủ yếu còn có Ngân hàng Công thương của Trung Quốc (ICBC), vậy là có bóng ma Tầu cộng đàng sau lưng dự án. Biến vốn cho vay thành vốn góp, dễ dàng ra tay thu tóm, chuyện đã xảy ra y chang ở Nha Trang Đà Nẵng.
Còn hỏi khu nghỉ dưỡng này, hổng biết là khu thứ mấy trên xứ mình, đừng hỏi chi câu đó mà phải thấy câu bác nói ‘thắng giặc Mỹ ta xây dựng bằng mười hôm nay’ đã linh ứng, nên mới mọc rộ những sân golf, resort, casino, hotel… Rồi đây nông dân bỏ cày bừa ly hương, ngư dân bỏ lưới bỏ thuyền đi xứ người, sẽ quay về xin việc.
Cảnh đó vui biết mấy… Và lúc đó chắc cũng hổng ai còn quởn, để mà kể chuyện đời xưa dân binh Lý Sơn, hàng năm mỗi độ tháng Ba lại xuôi Vạn Lý!