Từ Thức
Báo Tiếng Dân
“Vào năm giảm tô, ông nội bị bắt giam. Ông bị treo lên, đầu dọng xuống đất. Sao lại dọng đầu ông xuống đất, sau này tôi hỏi mẹ. Mẹ bảo, để cho ông có nuốt vàng vào trong bụng thì nhả ra. Họ dọng đầu ông như thế từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối. Cho đến lúc không tra khảo gì nữa thì tống vào tù”.
Đó là một cảnh đấu tố trong cuốn “GIA ĐÌNH” của Phan Thuý Hà (Nhà Xuất bản Phụ Nữ Việt Nam), ra mắt năm 2020. Tác giả đi gặp, ghi lại lời kể của những nhân chứng còn sống sót thời Cải Cách Ruộng Đất kinh hoàng, đẫm máu ở miền Bắc, từ năm 1953 tới 1956.
“ĐOẠN ĐỜI NIÊN THIẾU”, là cuốn thứ hai, cùng một đề tài, vừa được Hội Nhà Văn xuất bản ở Hà Nội (năm 2023).
Người đọc, dù đã biết, đã đọc những chuyện tàn khốc, man rợ về những cuộc đấu tố, sẽ sững sờ trước những sự kiện, những kỷ niệm sống, vượt xa sức tưởng tượng của những nhà văn giầu tưởng tượng nhất.
Hơn cả cái tàn ác, cái làm cho người đọc kinh hoàng là sự hủy hoại tình người, mà Tô Thuỳ Yên gọi là cái “thương tổn nặng nề cho nhân phẩm”.
Gấp sách lại, người đọc tự hỏi: Tại sao con người có thể độc ác, tàn tệ với nhau đến như vậy? Nhất là đây không phải là nghĩa vụ “uống máu quân thù”.
Đối tượng không phải là giặc Pháp, cũng chưa có “Mỹ Nguỵ”. Đối tượng là những người láng giềng, cha mẹ, anh em, chiến hữu đã cùng nhau vào sinh ra tử, những người cùng chung và cùng đổ máu để xây dựng “thiên đường xã hội chủ nghĩa”, hôm trước là chiến sĩ gương mẫu, hôm sau bị quy là địa chủ bóc lột, vì có vài sào ruộng, một con trâu, một đàn gà. Hay chỉ vì một chút hận thù, ganh ghét cá nhân.
39 GIA ĐÌNH TAN NÁT
“Mẹ tôi nói: Cha đấy con. Cha con là người vừa bị bịt mắt giải khăn đen kia. Cha giật giải khăn đen ra: Tôi không có tội gì cả. Đảng Cộng sản VN muôn năm. Chủ tịch HCM muôn năm (…) Buổi chiều trước ngày cha bị bắn, mẹ đưa cơm cho cha. Cha ăn cơm xong, người ta trả cái giỏ đựng nồi cơm cho mẹ. Mẹ thấy ở dưới đáy nồi mẩu giấy nhắn của cha: Ai ngờ vô tội mà chết oan. Âu cũng là số kiếp. Gắng mà nuôi con. Sau này Đảng có hỏi thì trình bày tới nơi tới chốn (Gia Đình. tr.171).
Đây không phải là một cuốn sách hư cấu.
Dưới 2 cái tựa hiền lành, gần như lạnh lùng, tác giả ghi lại lời kể của các nhân chứng, không một lời bình luận. Những dự kiện trần truồng, không gói ghém, càng khiến cái man rợ, man rợ hơn.
Sự thực, cũng chẳng cần bình luận. Sự kiện, tự nó, nó nói. Khi cái man rợ lên tới tột độ, lời bình luận trở thành thừa thãi.
Gia Đình (274 trang) là chuyện của 19 người, Đoạn Đời Niên Thiếu (250 trang), 20, tổng cộng 49 nhân chứng, 39 gia đình tan nát.
Mỗi trang là một thảm kịch. Mỗi câu chuyện trong hai cuốn sách có cái tựa mang tên người kể chuyện: Lê Xuân Đài, Đặng Thị Dung, Đặng Văn Chương v.v…
Đoạn trích trên đầu bài là lời kể của nhân chứng Võ Tá Tạo (GĐ, trang 49-53). Ngoài ông nội, bị treo ngược đầu, sau đó chết vì bệnh, “bác Võ Tá Cảnh, con trai cả của ông bà, chết trong trai giam. Có người nói bác tự vẫn (…). Anh chết, em phải thế mạng. Cha tôi, Võ Tá Tân, phải đền tội thay Võ Tá Cảnh. Cha về làng để nhận án tử hình thay thế bác Cảnh (…). Trên quả đồi trọc, những bó đuốc giơ lên. “Cho mi nói một lời cuối cùng với bà con nông dân”. Cha nói: Con thưa bà con nông dân, con là một thằng phản dân, phản đảng, phản nước, con xin ông bà nông dân tha tội bắn cho con… Ba phát súng. Ở nhà chúng tôi nghe rõ. Cha tôi gục xuống”.
Trước khi xử tử, người ta quy tội. Có người bị hành hạ vì tội đã học tiếng Pháp, chắc chắn là để làm mật thám cho Tây. Có người bị kết án vì lý do ngớ ngẩn: Thằng Bản (địa chủ bị gọi là thằng, xưng con, bất chấp tuổi tác) chặt cây ngụy trang chỉ điểm cho giặc. Bởi vì có lần bà ta đi ngang ngõ thấy cha tôi bắc thang trèo cây, tỉa bớt cành lá (GĐ. tr.27).
Tội trạng như vậy, đủ để bị trói, bị quỳ trên sỏi đá, cho dân làng nhục mạ. “Buổi chiều, tôi gấp một chiếc giẻ may vào phần đầu gối chiếc quần cho cha quỳ đỡ đau buốt. Đứa nào vay thêm vải này cho mày? Dạ thưa, con Tư may. Lớp giẻ độn sau chiếc quần bị tháo ra. Đêm đó cha bị quỳ lâu hơn, đá nhọn dồn lên đầu gối sắc hơn hôm qua (GĐ. tr. 28).
Cái đói, cái dã man hơn cả thú vật giữa người với người, cái nhục mạ, hành hạ thân xác, tinh thần những nạn nhân vô tội, và cái chết bi thảm, rùng rợn, của những người bị đạp ra khỏi xã hội hiện diện trên mỗi trang giấy.
Một xã hội chỉ có nhu cầu ăn cho no, sẵn sàng đạp lên xác người khác để có bát gạo. Trò giải trí duy nhất là đi coi, hay tham dự đấu tố, cái vui duy nhất là nhục mạ, giết người trước đó là anh em, láng giềng hay ruột thịt.
(Dưới mỗi đoạn trích trong bài này, xin viết tắt: GĐ là trích từ cuốn Gia Đình, ĐĐNT: Đoạn Đời Niên Thiếu).
CÁI TÀN ÁC MAN RỢ
– Buổi chiều, tôi gấp một chiếc giẻ may vào phần đầu gối chiếc quần cho cha quỳ đỡ đau buốt. Đứa nào vay thêm vải này cho mày? Dạ thưa, con tư may. Lớp giẻ độn sau chiếc quần bị tháo ra. Đêm đó cha bị quỳ lâu hơn, đá nhọn dồn lên đầu gối sắc hơn hôm qua (GĐ. tr. 28).
Con đi bộ đội, một bà mẹ hiến đất, hiến của cho cách mạng: “Chum, vại, đàn trâu bò mẹ bán hết để mua công trái quốc gia, đóng thuế nông nghiệp.(…). Mẹ được tặng bằng “Gia đình vẻ vang”. Con nhà người ta bị bắt đi tù, bị mang ra bắn, con mình được bằng khen. Mẹ bảo tôi tìm cho mẹ một cái ống tre khô, cuộn tròn tấm bằng khen, cất vào ống tre, để lên đầu giường. Một đêm, mẹ đang ngủ, dân quân gọi ra hội quán. Hôm sau tôi mang cho mẹ mấy củ khoai, thấy hai chân mẹ bị cùm, mẹ khóc. Hơn tháng sau, dân quân giải mẹ về, gọi tôi ra quỳ cùng với mẹ. Họ ra lệnh gì mẹ tôi cũng dạ” (ĐĐNT).
– “Ngoài sân như hội trường. Tiếng quát tháo, tiếng giành nhau đồ đạc. Cờ quạt dựng lên từ ngõ vào. Mẹ và bà nội bị bắt đi đâu không ai biết (…). Em tôi đói. Tôi cũng đói. Em lả dần và chết bên cạnh tôi. Người ta đấm đá vào lưng, vào gáy mẹ. Người ta lấy báng súng tọng lên lưng mẹ” (GĐ, tr.39).
CÁI CƯỚP GIỰT:
Đó là một xã hội cướp bóc, từ trên xuống dưới, công khai. Nhà nước cướp: “lúa chưa kịp phơi khô. Phải nộp hết. Gọi là thuế nông nghiệp” (ĐĐNT. tr.18). Thuế nông nghiệp, thuế khả năng và hàng chục thứ thuế khác. Nhiều người bị kết án tử hình sau khi đã cống hiến tất cả, nhưng vẫn chưa đủ.
“ Cha bị bắt đi quản huấn. Ở nhà, thỉnh thoảng mẹ tôi bị bắt đến nhà một cố nông để khai báo còn cất bao nhiêu vàng bạc, lúa gạo. Còn gì mà khai báo. Vàng bạc đã cúng hiến cho kháng chiến trong “tuần lễ vàng”, lúa gạo đã cúng hiến cho chiến dịch ba tháng “góp gạo nuôi quân”, mùa lúa cuối cùng đã nộp hết cho thuế nông nghiệp” (GĐ. tr. 55).
Mặc dầu vậy, “mẹ tôi bị trói cổ tay bằng sợi dây xỏ mũi trâu bò, treo lên cành cây bưởi ở mé sân, chân không chạm đất. Đàn con ngồi trước mặt mẹ, chứng kiến mẹ bị treo lơ lửng” (GĐ. Tr. 56).
Bị nhà nước cướp sách, dân đói, cướp lẫn nhau.
Mang nhau ra sỉ vả, tra tấn, hành hạ hay chém giết chỉ để cướp một cái chiếu sạch, một cái nồi đồng: ”Mẹ dậy nhóm bếp, bẻ nửa nải chuối cho vào niêu luộc. Ánh lửa hất ra đường, cốt cán Hoe Năng đi tuần phát hiện, vào kiểm tra đang nấu gì. Chuối ở đâu ra (…). Tịch thu, của ni không phải của mi. Hoe Vinh bê niêu chuối trên bếp lẫn nửa nải chuối chưa luộc, mang đi” (ĐĐNT. tr. 34).
Cái cảnh cướp giựt, từ một miếng cơm, không biết nên cười hay nên khóc: “Cả nhà ăn bữa cơm đầu tiên. Đang ăn, dân quân đứng ngoài nhìn vào. Mẹ nhanh trí làm động tác như đang húp cháo, nghĩ là ăn cháo, dân quân bỏ đi” ( ĐĐNT. tr. 50).
“Trước khi đi ngủ, tôi xếp mười chiếc nón vào hai cái thúng. Sáng dậy gánh đi chợ hạ. Ra đầu ngõ bị dân quân tịch thu.” Đây là âm mưu của địa chủ phân tán tài sản. Từng là chiến sĩ thi đua, được cả trường tôn trọng, nay gặp những chuyện vô lý như thế, tôi uất ức, khó chịu. Nhiều đêm không ngủ được, tôi nghĩ đến chuyện tự tử (ĐĐNT. tr.70).
Một người cha đi tù, chuyển lời về nhà: “Các con cứ để cho họ lấy hết. Một cái vung cũng không được giấu. Các con cố giữ lại thứ gì, tội cha to thêm thứ đó. Các con giữ thêm một đồ vật, cha bị kết tù thêm một năm” (GĐ. tr. 34).
CÁI ĐÓI:
Cái đói là một ám ảnh lớn. Trang sách nào cũng có chuyện ăn vỏ khoai, ăn lá cây, dành giựt nhau một nắm cơm, một bát cháo.
– “Bán 10 viên (kẹo vừng), lời 4 viên. Các cháu đói quá, ăn vụng mất của o, đang lời thành lỗ. Chị dâu làm bánh tẻ, bánh ít đem ra chợ. Người ta xúm lại bóc bánh ăn rồi đi, không trả tiền...” (ĐĐNT. tr. 18)
– “Làm việc cả ngày, được nghỉ trưa một tiếng để ăn cháo. Chị nấu ăn hôm đó dùng thùng thuốc trừ sâu đựng cháo. Thùng chưa vệ sinh sạch. Mấy người ăn bị ngộ độc. Họ nghi tôi, con địa chủ, bỏ thuốc độc vào nồi cháo. Không ai ăn cùng mâm, không [ai] nói chuyện với tôi” (ĐĐNT. tr. 20).
Đôi khi người đọc mỉm cười: Mẹ bị tố, cả nhà đói, người anh đi bộ đội gởi về tặng em một… trái mìn, để đánh cá. Mìn nổ trên mặt nước, chỉ chết vài con cá mương (ĐĐNT. tr.36).
(Còn tiếp)