Những điều không có thật
Huy Phương
Vào khoảng năm 1962, Đài Phát thanh Hà Nội cũng như báo chí miền Bắc XHCN mở một chiến dịch ca tụng một liệt sĩ có tên Nguyễn Văn Bé đã hy sinh trong một cuộc “chống càn” của “Mỹ Ngụy” tại miền Nam, với những hình ảnh rõ ràng của người lính trẻ này. Lẽ cố nhiên đi kèm với tên tuổi liệt sĩ này là chiến tích thường lệ như bắn cháy một máy bay lên thẳng, vài xe bọc thép hay tiêu diệt một đại đội Ngụy. Chỉ một tuần sau đó, Bộ Thông Tin Chiêu Hồi “Ngụy” tại miền Nam đưa con người thật của “liệt sĩ” này, chính là một hồi chánh viên mang tên Nguyễn Văn Bé bằng xương bằng thịt lên truyền hình. Thì ra sau trận đánh nêu trên, sau khi kiểm điểm tàn quân, không thấy mặt Nguyễn Văn Bé, chính ủy đơn vị “bộ đội ta” bèn phịa ra hình ảnh liệt sĩ này để làm gương sáng cho quần chúng noi theo, trong khi chính Nguyễn Văn Bé nhân cơ hội này đã về hồi chánh với phía quốc gia. Đây là một vụ bẽ mặt nhất cho bộ máy tuyên truyền của miền Bắc, khiến dân chúng miền Nam có dịp thấy rõ luận điệu xảo trá về kỷ thuật dàn đựng không gặp may của các ống loa tuyên truyền ngoài ấy.
Thời kỳ trước năm 1945, tại Chợ Đất Đỏ Bình Tuy, dân chúng đã biết chuyện một cô gái cùi thường lê lết ăn xin trong chợ, đã bị Việt Minh thuê quăng một trái lựu đạn vào chợ làm chết rất nhiều thường dân để khủng bố. Cô gái này chính là hình ảnh để xây dựng thành Võ Thị Sáu, cô gái ngoan cường của Đảng Cộng Sản dã tiến công vào quận lỵ Đất Đỏ gây thiệt hại lớn cho “địch” để làm sáng danh phụ nữ miền Nam, ngày nay nằm chễm chệ trên bảng tên của vô số con đường ở hai miền Nam Bắc.
Như vậy không chờ tới ngày nay, Lê Văn Tám, nổi danh qua cái công viên đầy chích choác ở Saigon hôm nay, mới được ông Giáo Sư Phan Huy Lê, Chủ Tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, xác nhận là một nhân vật do Trần Huy Liệu, Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền và Cổ Động ngày trước “đẻ” ra, và chuyện “phịa” có đủ ngày tháng viết trong sử sách đàng hoàng để bịp các em bé ngây thơ mang khăn quàng đỏ. Đó là chuyện Lê Văn Tám, cậu bé bán đậu phụng rang tại Saigon vì căm thù giặc Pháp, buổi sáng ngày 1 tháng 1 năm 1945, đã tẩm xăng vào người và tự mình châm lửa làm thành “ngọn đuốc sống”, đốt cháy tan kho đạn của Pháp tại Thị Nghè. Vì chút liêm sĩ cuối đời, các vị này đã công nhận một kho đạn của quân đội Pháp không thể để sơ hở đến nổi một đứa trẻ lên mười có thể chạy thẳng từ cổng trại vào hầm chứa đạn sau khi toàn thân đã bốc cháy qua một đoạn đường, cũng trong tưởng tượng là 50 thước. Như vậy mà cái tên Lê Văn Tám đã sống tới sáu mươi năm trời từ Bắc tới Nam vì “nhiệm vụ tuyên truyền” như lời trối trăng của Trần Huy Liệu. Miễn đi tới mục đích, còn phương tiện không đáng kể, vì “mục đích biện minh cho phương tiện”.
Rồi chúng ta suy ra những cái tên lạ lùng chưa hề nghe một lần như Nguyễn Thị Riêng, Huỳnh Văn Bánh... nhan nhãn ghi trên các đường phố Saigon sau ngày đổi chủ, cũng là những sản phẩm tưởng tượng vì “nhiệm vụ” tuyên truyền mà thôi.
Dân ngu thì dễ bịp. Vì vậy chẳng ai ngạc nhiên ở trong chế độ Cộng Sản có nhiều chuyện quá sức tưởng tượng của con người. Người ta kể thời niên thiếu của Kim Nhật Thành, lãnh tụ Cộng Sản Bắc Hàn, rằng bà mẹ của Kim Chủ Tịch đã tay không tước súng và bắn chết hai tên lính Nhật. Một nhà thơ thuộc trường phái Tố Hữu lại ca tụng một con chim nhỏ bay về đậu trên vai pho tượng Kim Nhật Thành mà khóc. Trong các lớp tiểu học của Bắc Hàn còn có cả mô hình nhỏ của ngôi làng của Kim Nhật Thành lúc nhỏ, chỗ nào là Kim thường ra câu cá, chỗ nào là Kim hay chơi đùa với bạn.
Trong một bài báo của nhà văn Mường Giang, gốc người Phan Thiết, đã kể lại rằng, trong bản tiểu sử của Hồ Chí minh, trong giai đoạn lang thang từ quê hương nghèo đói vào Nam có một lúc nào đó, dừng chân lại Phan thiết để làm nghề dạy học tại trường Dục Thanh . Trên con đường đi cứu nước của “bác”, lịch sử đảng có cho biết năm 1910, bác có ghé lại dạy trường Dục Thanh để độ nhật, nhưng không nói rõ là dạy bao lâu, dạy lớp nào. Đương nhiên đảng cũng vẽ vời thêm thắt là trong lúc dạy học, bác đã gieo vào tâm trí học sinh non trẻ tinh thần yêu nước. Sau này, lớn lên dân Phan Thiết theo Cách Mạng được cỡ bao nhiêu người thì không có thống kê, nhưng sau khi làm chủ được cả đất nước, thì những ông Tỉnh Ủy, Thành Ủy đã tận tâm lấy điểm với Trung Ương bằng cách cướp giật đất đai của dân ở cái vùng Dục Thanh nào đó ngày xưa, để làm nhà lưu niệm, xây viện bảo tàng mang tên “bác” để cho dân Bình Thuận được thơm lây vì đã đóng góp với dân tộc một chút gì qua con đường“bác đi”. Nếu ngày xưa, từ Phan Thiết, “bác” vào Saigon bằng xe lửa chạy than, thì cũng nên kiếm một cái đầu xe lửa hoen rỉ nào đang vứt bỏ ở ga Mường Mán, đem về viện bảo tàng sơn quét lại để gọi là cho thêm dấu tích đã làm vẻ vang cho quê hương đã mang vết chân và hơi hướm của “bác”.
Chân lý đã soi sáng là cái gì của “bác” cũng thơm tho, quí giá. Tượng đài, nhà lưu niệm, viện bảo tàng mọc lên như nấm sau cơn mưa để đánh bóng con người lãnh tụ. Bác sinh ra ở làng Sen thì làng Sen phải thành thánh địa của cha già, đảng nói “bác“ ra đi cứu nước từ bến Nhà Rồng thì bến Nhà Rồng phải lập tức phải thành bảo tàng , nhà lưu niệm. Không biết ngày đó, người thanh niên xuống tàu.... xin một chân phụ bếp, con tàu đậu ở kho nào, kho 5 hay kho 7, mà sau tháng 4-75 cả một tòa nhà cao ở bến Khánh Hội được tân trang, sơn quét để trở thành một di tích lịch sử vĩ đại, biểu tượng của thành phố mới mang tên “bác”, đúng như câu hát “từ thành phố này, Người đã ra đi...” Chỉ tiếc là trong Viện Bảo Tàng này không có tấm đơn của bác được lộng kiếng, đó là tờ đơn bác xin Tây cho vào học trường Thuộc Địa. Từ nơi ngôi nhà bác sinh ra, tới lỗ hang Pắc Bó, căn nhà sàn bác ở, đôi giép râu bác đi... đã thành những thứ quốc bảo.
Điều này không có gì là sáng tạo. Đệ tử của Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành... học đòi kinh điển “suy tôn”, đều có những hành động theo một khuôn mẫu như nhau. Nghĩa là cứ dựng lên một bức tượng, bằng gỗ hay đất sét gì cũng dược, rồi cứ vái lạy lâu ngày sẽ thành vật thiêng, nhưng đó là một điều không thật. Như trong phim “Mê Thảo”: Nguyễn tạc một bức tượng người yêu bằng gỗ rồi “làm tình bằng tưởng tượng”với bức tượng ấy. Điều này làm cho chúng ta nhớ lại những điều không có thật như tượng gỗ “tư tưởng Hồ Chí Minh” mà bao nhiêu trí thức, vì món nợ tem phiếu đã “thủ dâm” với tư tưởng này suốt trong những năm tháng qua.Tài năng, đạo đức lãnh tụ hay anh hùng không cần có thật, đảng và cán bộ cầm quyền vì nhu cầu chính trị đã tạo lên nó, xem nó như là có thật, từ đó họ “thống khoái bằng bàn tay” trong một tinh thần hoang tưởng tột độ. Bao nhiêu người đã xả thân vô tích sự vì thứ bệnh hoạn ấy, vì kỷ thuật dàn dựng và tuyền truyền của những bộ máy chuyên đánh bóng những hình ảnh anh hùng, lãnh tụ trong những chế độ độc tài trên thế giới?
Huy Phương
Vào khoảng năm 1962, Đài Phát thanh Hà Nội cũng như báo chí miền Bắc XHCN mở một chiến dịch ca tụng một liệt sĩ có tên Nguyễn Văn Bé đã hy sinh trong một cuộc “chống càn” của “Mỹ Ngụy” tại miền Nam, với những hình ảnh rõ ràng của người lính trẻ này. Lẽ cố nhiên đi kèm với tên tuổi liệt sĩ này là chiến tích thường lệ như bắn cháy một máy bay lên thẳng, vài xe bọc thép hay tiêu diệt một đại đội Ngụy. Chỉ một tuần sau đó, Bộ Thông Tin Chiêu Hồi “Ngụy” tại miền Nam đưa con người thật của “liệt sĩ” này, chính là một hồi chánh viên mang tên Nguyễn Văn Bé bằng xương bằng thịt lên truyền hình. Thì ra sau trận đánh nêu trên, sau khi kiểm điểm tàn quân, không thấy mặt Nguyễn Văn Bé, chính ủy đơn vị “bộ đội ta” bèn phịa ra hình ảnh liệt sĩ này để làm gương sáng cho quần chúng noi theo, trong khi chính Nguyễn Văn Bé nhân cơ hội này đã về hồi chánh với phía quốc gia. Đây là một vụ bẽ mặt nhất cho bộ máy tuyên truyền của miền Bắc, khiến dân chúng miền Nam có dịp thấy rõ luận điệu xảo trá về kỷ thuật dàn đựng không gặp may của các ống loa tuyên truyền ngoài ấy.
Thời kỳ trước năm 1945, tại Chợ Đất Đỏ Bình Tuy, dân chúng đã biết chuyện một cô gái cùi thường lê lết ăn xin trong chợ, đã bị Việt Minh thuê quăng một trái lựu đạn vào chợ làm chết rất nhiều thường dân để khủng bố. Cô gái này chính là hình ảnh để xây dựng thành Võ Thị Sáu, cô gái ngoan cường của Đảng Cộng Sản dã tiến công vào quận lỵ Đất Đỏ gây thiệt hại lớn cho “địch” để làm sáng danh phụ nữ miền Nam, ngày nay nằm chễm chệ trên bảng tên của vô số con đường ở hai miền Nam Bắc.
Như vậy không chờ tới ngày nay, Lê Văn Tám, nổi danh qua cái công viên đầy chích choác ở Saigon hôm nay, mới được ông Giáo Sư Phan Huy Lê, Chủ Tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, xác nhận là một nhân vật do Trần Huy Liệu, Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền và Cổ Động ngày trước “đẻ” ra, và chuyện “phịa” có đủ ngày tháng viết trong sử sách đàng hoàng để bịp các em bé ngây thơ mang khăn quàng đỏ. Đó là chuyện Lê Văn Tám, cậu bé bán đậu phụng rang tại Saigon vì căm thù giặc Pháp, buổi sáng ngày 1 tháng 1 năm 1945, đã tẩm xăng vào người và tự mình châm lửa làm thành “ngọn đuốc sống”, đốt cháy tan kho đạn của Pháp tại Thị Nghè. Vì chút liêm sĩ cuối đời, các vị này đã công nhận một kho đạn của quân đội Pháp không thể để sơ hở đến nổi một đứa trẻ lên mười có thể chạy thẳng từ cổng trại vào hầm chứa đạn sau khi toàn thân đã bốc cháy qua một đoạn đường, cũng trong tưởng tượng là 50 thước. Như vậy mà cái tên Lê Văn Tám đã sống tới sáu mươi năm trời từ Bắc tới Nam vì “nhiệm vụ tuyên truyền” như lời trối trăng của Trần Huy Liệu. Miễn đi tới mục đích, còn phương tiện không đáng kể, vì “mục đích biện minh cho phương tiện”.
Rồi chúng ta suy ra những cái tên lạ lùng chưa hề nghe một lần như Nguyễn Thị Riêng, Huỳnh Văn Bánh... nhan nhãn ghi trên các đường phố Saigon sau ngày đổi chủ, cũng là những sản phẩm tưởng tượng vì “nhiệm vụ” tuyên truyền mà thôi.
Dân ngu thì dễ bịp. Vì vậy chẳng ai ngạc nhiên ở trong chế độ Cộng Sản có nhiều chuyện quá sức tưởng tượng của con người. Người ta kể thời niên thiếu của Kim Nhật Thành, lãnh tụ Cộng Sản Bắc Hàn, rằng bà mẹ của Kim Chủ Tịch đã tay không tước súng và bắn chết hai tên lính Nhật. Một nhà thơ thuộc trường phái Tố Hữu lại ca tụng một con chim nhỏ bay về đậu trên vai pho tượng Kim Nhật Thành mà khóc. Trong các lớp tiểu học của Bắc Hàn còn có cả mô hình nhỏ của ngôi làng của Kim Nhật Thành lúc nhỏ, chỗ nào là Kim thường ra câu cá, chỗ nào là Kim hay chơi đùa với bạn.
Trong một bài báo của nhà văn Mường Giang, gốc người Phan Thiết, đã kể lại rằng, trong bản tiểu sử của Hồ Chí minh, trong giai đoạn lang thang từ quê hương nghèo đói vào Nam có một lúc nào đó, dừng chân lại Phan thiết để làm nghề dạy học tại trường Dục Thanh . Trên con đường đi cứu nước của “bác”, lịch sử đảng có cho biết năm 1910, bác có ghé lại dạy trường Dục Thanh để độ nhật, nhưng không nói rõ là dạy bao lâu, dạy lớp nào. Đương nhiên đảng cũng vẽ vời thêm thắt là trong lúc dạy học, bác đã gieo vào tâm trí học sinh non trẻ tinh thần yêu nước. Sau này, lớn lên dân Phan Thiết theo Cách Mạng được cỡ bao nhiêu người thì không có thống kê, nhưng sau khi làm chủ được cả đất nước, thì những ông Tỉnh Ủy, Thành Ủy đã tận tâm lấy điểm với Trung Ương bằng cách cướp giật đất đai của dân ở cái vùng Dục Thanh nào đó ngày xưa, để làm nhà lưu niệm, xây viện bảo tàng mang tên “bác” để cho dân Bình Thuận được thơm lây vì đã đóng góp với dân tộc một chút gì qua con đường“bác đi”. Nếu ngày xưa, từ Phan Thiết, “bác” vào Saigon bằng xe lửa chạy than, thì cũng nên kiếm một cái đầu xe lửa hoen rỉ nào đang vứt bỏ ở ga Mường Mán, đem về viện bảo tàng sơn quét lại để gọi là cho thêm dấu tích đã làm vẻ vang cho quê hương đã mang vết chân và hơi hướm của “bác”.
Chân lý đã soi sáng là cái gì của “bác” cũng thơm tho, quí giá. Tượng đài, nhà lưu niệm, viện bảo tàng mọc lên như nấm sau cơn mưa để đánh bóng con người lãnh tụ. Bác sinh ra ở làng Sen thì làng Sen phải thành thánh địa của cha già, đảng nói “bác“ ra đi cứu nước từ bến Nhà Rồng thì bến Nhà Rồng phải lập tức phải thành bảo tàng , nhà lưu niệm. Không biết ngày đó, người thanh niên xuống tàu.... xin một chân phụ bếp, con tàu đậu ở kho nào, kho 5 hay kho 7, mà sau tháng 4-75 cả một tòa nhà cao ở bến Khánh Hội được tân trang, sơn quét để trở thành một di tích lịch sử vĩ đại, biểu tượng của thành phố mới mang tên “bác”, đúng như câu hát “từ thành phố này, Người đã ra đi...” Chỉ tiếc là trong Viện Bảo Tàng này không có tấm đơn của bác được lộng kiếng, đó là tờ đơn bác xin Tây cho vào học trường Thuộc Địa. Từ nơi ngôi nhà bác sinh ra, tới lỗ hang Pắc Bó, căn nhà sàn bác ở, đôi giép râu bác đi... đã thành những thứ quốc bảo.
Điều này không có gì là sáng tạo. Đệ tử của Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành... học đòi kinh điển “suy tôn”, đều có những hành động theo một khuôn mẫu như nhau. Nghĩa là cứ dựng lên một bức tượng, bằng gỗ hay đất sét gì cũng dược, rồi cứ vái lạy lâu ngày sẽ thành vật thiêng, nhưng đó là một điều không thật. Như trong phim “Mê Thảo”: Nguyễn tạc một bức tượng người yêu bằng gỗ rồi “làm tình bằng tưởng tượng”với bức tượng ấy. Điều này làm cho chúng ta nhớ lại những điều không có thật như tượng gỗ “tư tưởng Hồ Chí Minh” mà bao nhiêu trí thức, vì món nợ tem phiếu đã “thủ dâm” với tư tưởng này suốt trong những năm tháng qua.Tài năng, đạo đức lãnh tụ hay anh hùng không cần có thật, đảng và cán bộ cầm quyền vì nhu cầu chính trị đã tạo lên nó, xem nó như là có thật, từ đó họ “thống khoái bằng bàn tay” trong một tinh thần hoang tưởng tột độ. Bao nhiêu người đã xả thân vô tích sự vì thứ bệnh hoạn ấy, vì kỷ thuật dàn dựng và tuyền truyền của những bộ máy chuyên đánh bóng những hình ảnh anh hùng, lãnh tụ trong những chế độ độc tài trên thế giới?
Gửi ý kiến của bạn