Chữ Nho - chữ Tàu!

24 Tháng Tám 201911:43 CH(Xem: 4924)
                                          CHỮ NHO - CHỮ TÀU

WER

Q
uyền Được Biết



Trong chương trình thúc đẩy người dân trong nước Bài Trung, tẩy chay Tàu Khựa trên nhiều lĩnh vực, kinh tế không mua hàng Made in China, xã hội không gã con cho Tàu Đại Lục, không làm ăn buôn bán với chúng, văn hóa bài trừ những từ Việt gốc Hán mà trang nhà chúng tôi đã có nhiều bài viết nêu ra những từ ngữ lệ thuộc giặc Tàu, có nguồn gốc Tàu hóa trong quá trình bọn chúng xâm lăng và cướp nước Việt, áp đặt chính sách cai trị và đồng hóa dân ta từ xa xưa cho đến hôm nay.
May mắn thay chúng ta đã có chữ quốc ngữ thay thế tuy nhiên khi phiên âm, phiên dịch ra vẫn còn mang nặng âm hưởng văn hóa Tàu, đó là điều không đúng đắn bởi vì trong tự điển Tiếng Việt hiện nay chúng ta hoàn toàn có những từ thay thế thuần Việt mà không lai căng bọn Tàu vì thế việc cổ xúy bảo tồn tiếng Việt là một việc làm cần thiết nhưng cần thiết hơn nữa là những nhà trí thức, học giả phải tìm tòi, phát kiến ra những từ mới chưa hề có trong từ điển mang tính thuần Việt để thay thế cho những từ có nguồn gốc từ chữ Hán, chữ Nho.
Không có lý gì mà khi mang danh những nhà ngôn ngữ học, bằng cấp đầy mình mà lại thua cả hạng thứ dân tầm thường khi họ sử dụng và cải biên ngôn ngữ hàng ngày trong giao tiếp, làm giàu thêm tiếng Việt mà các học giả không có những công trình mới về Tiếng Việt cho người dân sử dụng, đó là một thiếu sót lớn với dân tộc.
Chúng tôi xin nhắc lại cho quý vị nhớ rằng:
- Chúng ta mất nước, mất miền nam bởi vì tư duy giải phóng người dân miền bắc không có trong đầu các lãnh tụ và người dân miền nam, do đó trong chiến tranh chúng ta chỉ ở thế hòa và thua chứ không ở thế công như cộng sản.
- Người Việt nước ngoài cố thủ trong những vỏ ốc với những danh xưng nghe kêu như sấm nhưng không có kế hoạch nào tấn công cộng sản hữu hiệu và kết quả là cộng sản đang ở đầy quanh ta, đó cũng là thế thủ và thế thua!.
- Tiếng Việt bảo tồn nhưng không tìm tòi phát minh ra những chữ mới cho người dân sử dụng mà lại tiếp tục vay mượn những từ của Tàu thì chúng ta vẫn đang mang tâm lý nô lệ dẫn đến thế thủ, dẫm chân tại chỗ cho đến thua trong chiến dịch xâm lăng văn hóa của giặc. Đây chính là trách nhiệm của tất cả người Việt từ trong nước đến nước ngoài phải tìm tòi sáng chế ra những chữ mới để bổ sung cho nguồn vốn từ trong từ điển và thoát khỏi sự cương tỏa của giặc trên mặt trận văn hóa.

======================================================================


                           PHẦN BẮT LỖI TỪ HÁN - VIỆT BÀI VIẾT TRÊN TRANG QĐB
                                                 CỦA TÁC GIẢ TRẦN NGỌC DỤNG




Kể từ khi Alexandre de Rhodes và các giáo sỹ Bồ Đào Nha nghiên cứusáng chế ra chữ Việt có tên gọi Quốc Ngữ cho đến nay đã trải qua mấy trăm năm tuy nhiên do ra đời trong thời kỳ phong kiến cho nên chữ Quốc
Ngữ của nước ta ảnh hưởng vào Trung Quốc với những từ vay mượn rất nhiều.
Trích nguồn Wiki: Chữ Hán, hay Hán tự (chữ Hán phồn thể: 漢字, giản thể: 汉字), Hán văn(漢文/汉文
),[1} chữ Trung Quốc là một dạng chữ viết biểu ý của tiếng Trung Quốc. Chữ Hán có nguồn gốc bản địa, sau đó
du nhập vào các nước lân cận trong vùng bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, tạo thành vùng được gọi
là vùng văn hóa chữ Hán hay vùng văn hóa Đông Á. Tại các quốc gia này, chữ Hán được vay mượn để tạo nên
chữ viết cho ngôn ngữ của dân bản địa ở từng nước.
Danh từ chữ nho được dùng để chỉ chữ Hán do người Việt dùng trong các văn bản ở Việt Nam.
Đó là hệ quả lịch sử khi nước Việt bị giặc Tầu đô hộ 1.000 năm trong công cuộc đồng hóa một dân tộc
nằm ở vùng cực nam lục địa.
Những loại trí thức dỏm với tâm hồn nô lệ thâm căn cố đế này đang tiếp tay cho giặc Tầu đô hộ chúng ta
về văn hóa.
Loại chữ Quốc Ngữ mà nền giáo dục trong thế kỷ 20 áp dụng trong nhà trường ảnh hưởng rất nặng nề
tiếng Hán (Chỉ nội chữ Hán cũng chỉ ra đó là một triều đại phong kiến xa xưa bên Tầu) với cách phiên âm,
chuyển ngữ ra một loại tiếng Việt – không thuần Việt mà lại lai tạp Tầu.
Chúng ta có thể nhìn thấy văn phong của người Việt học tập trong nước tại miền nam trước năm 1975 và
sau này di cư ra hải ngoại rất hay dùng những loại chữ có xuất phát từ tiếng Hán và họ gọi đó là từ Hán – Việt
nhưng có một điều là tiếng Việt hoàn toàn có những chữ thay thế thuần Việt mà không lai tạp tiếng Hán nhưng
rất nhiều người không chịu dùng.
Ví dụ về những ngôn từ người Việt trước 1975 tại miền nam hay dùng:
- Đệ nhất, nhị, tam, tứ, chu niên, thủy quân lục chiến, bộ binh, pháo binh, không quân, hải quân, nha lộ vận,
trực thăng, phi công, phi cơ, phi đạo, phi trường, Viện Đại học, học giả, dịch giả, ghi danh, tả ngạn, hữu ngạn,
hàng không mẫu hạm, tiểu, trung, đại, Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu vv…
Về phía csVN cũng không phải không có cải cách những từ Hán thành những từ thuần Việt mà chúng ta
thoạt nghe có vẻ ngô nghê như Tầu bay, Tầu sân bay, sân bay, đường băng, năm thứ nhất, nhì, ba, tư, lính thủy đánh bộ, máy bay lên thẳng, sở giao thông, bên trái, bên phải…; riêng từ "ghi danh" mà những người Việt hải ngoại tự cho mình là kẻ có học chỉ trích cái từ đăng ký của cs thì phải xem đây là cả hai cùng vay mượn, chỉ trích từ đăng ký (Hán) mà lại dùng từ ghi danh (Hán) thì có gì khác nhau đâu? Từ đăng ký, ghi danh phải được thay thế bằng tiếng Việt là "Viết Tên" mới gọi là đúng đắn.
Trên đây là những từ đã được dịch ra thuần tiếng Việt mà không vay mượn tiếng Hán nhưng cũng có khi họ thay đổi nhưng vẫn còn âm hưởng giặc Tầu như Tết Nguyên Đán đổi thành Tết Cổ Truyền, chữ cổ truyền vẫn là một loại văn thoát thai từ tiếng Hán dù đã có thay đổi vì thế theo chúng tôi không gọi Nguyên Đán, Cổ Truyền mà chỉ nên gọi là Tết Ta, Tết Việt là đúng văn phong tiếng Việt nhất (vui lòng đọc rõ nguyên đoạn văn trước khi dùng vài từ - QĐB), riêng về Tết Trung Thu csVN đổi lại thành Tết Thiếu Nhi thì không cần phải có ý kiến.
Một ví dụ khác về cách gọi các loại súng, người ta thường phiên âm ra tiếng Việt thành tiểu liên, trung liên,
đại liên, đây là cách gọi của giặc Tầu, nếu phiên âm ra tiếng Việt thì nghe rất ngô nghê như súng nhỏ, súng vừa và súng lớn, vấn đề này không có gì khó cả, nếu không dịch ra được tiếng Việt thì chúng ta cứ gọi theo tên gốc của chúng là AK47, M16, Bar, M60, …đơn giản hơn nhiều nếu cứ phiên âm theo cách nói Hán – Việt.
Tuy nhiên có những từ gốc Hán không thể sửa chữa như Hải quân, Không quân nếu đổi qua tiếng Việt thì
chữ bị nghèo nghĩa như lính nước, lính trời và nghe không hợp tai cho nên những từ Hán trên đã là mặc định
và không thể thay đổi dù cái thứ tiếng đấy nó không phải là ngôn ngữ thuần chất Việt.
Tinh thần chống giặc Tầu của cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử và vẫn đang còn tiếp diễn với
sự xâm lấn vùng biển Việt Nam của bọn bá quyền Trung Cộng vì thế khởi động tinh thần Bài Trung là điều cần
thiết trong đó không thể không xét lại nhưng ngôn từ mà chúng ta đang sử dụng hàng ngày mang nặng âm
hưởng của bọn chúng, không thể nói rằng khi xưa chúng tôi đã học là phải gọi như vậy, như vầy mới đúng, mà
cần phải đặt tinh thần dân tộc lên trên hết, trong đó bài trừ những ngôn từ mang âm hưởng tiếng Hán là điều
cần thiết để có thể xây dựng được bản sắc văn hóa riêng biệt của một dân tộc.
Với tinh thần cấp tiến chúng tôi không lên án cách hành văn tiếng Việt, ngôn ngữ là dùng để giao tiếp, nói
làm sao cũng được, miễn là người nghe hiểu là không có vấn đề gì cần phải bàn cãi; tuy nhiên, vấn đề chữ Việt
bị lai tạp chữ Hán là một vấn đề không hề nhỏ, nó có ảnh hưởng sâu sắc đến hàng trăm, hàng ngàn năm cho
dân tộc từ trong nước, cũng như hải ngoại, nếu chúng ta không nhận thấy và có quyết tâm sửa chữa ngay từ
bây giờ.
Không một ai có thể phủ nhận sự thật đúng đắn này và đem những học hàm, học vị mình ra để bảo vệ cho
một loại ngôn ngữ sao chép, phiên âm từ tiếng Hán, nếu có thì đó là những kẻ vong nô với những tâm hồn nô
lệ thâm căn cố đã được truyền qua nhiều thế hệ cho nên mới tiếp tục “kiên quyết” (xin lỗi bạn đọc vì chúng tôi
hành văn theo kiểu cs) tiếp tục con đường mù lòa của những não trạng nô lệ, còn những con người yêu nước
thì mỗi khi mở miệng cất lời thì nên suy cho nghĩ trước khi nói để chúng ta không dùng những ngôn từ vay mượn của giặc Tầu hôm nay cũng như trong lịch sử tiến hóa của nền văn hóa Việt Nam ngày mai.
=====================================================================

Q
uyền Được Biết: Những chữ được tô vàng là của một học giả ở Hoa Kỳ bắt lỗi bài viết của chúng tôi, thế nhưng khi biên tập thì chúng tôi nhận định ông học giả này có nhiều ác cảm và bắt lỗi không ra đâu bởi vì những từ đã tô vàng của ông ta đa phần là từ Việt và nếu đã bắt lỗi thì ông nên chú thích từ thay thế thích hợp để rộng đường dư luận, ông không thể bắt lỗi chung chung và cho rằng lập luận của mình là đúng được.

Còn dưới đây là bài viết của Ông ta mang tên Duy Nguyên Trần Ngọc Dụng - Giảng viên tiếng Việt tại Hoa Kỳ.
Những chữ được tô màu đỏ là chú thích của QĐB về những từ Hán - Việt hoặc Sinh Ngữ mà ông ta dùng trong bài viết. (Ngoại trừ tài liệu trích dẫn).


                          CẦN PHÂN BIỆT CHỮ NHO VÀ TIẾNG TẦU
Kính mời tác giả và bạn đọc xem lại ý kiến của học giả Phạm Quỳnh trong cái tiêu đề "chữ Nho" trên:


Học Giả Phạm Quỳnh: Trước kia quốc văn tức là Hán văn, Hán văn tức là quốc văn, tự nhiên như vậy, không ai bận lòng mà phân biệt chữ nào là chữ ngoài, tiếng nào là tiếng mình, chỉ biết "văn" thì duy có Hán văn mà thôi, mà “Nôm” là lời tục trong dân gian của những kẻ không biết “chữ”. Ta không phải phán đoán cái đó là phải hay không phải, nên hay không nên, chỉ biết rằng đó là sự hiển nhiên như thế và là cái chứng rõ rằng chữ Hán đã tiêm nhiễm vào trong trí não người nước Nam sâu lắm rồi, đã thành cái biểu hiện tự nhiên cho tư tưởng cảm giác của người mình trong mấy mươi thế kỉ nay.

Con khóc cha cũng làm văn tế bằng chữ Nho, chồng dặn vợ cũng viết thơ từ bằng chữ Nho; coi đó thì biết chữ Nho phổ thông là dường nào, tức là cái văn tự độc nhất vô nhị của nước mình. Mười năm, hai mươi nhìn về trước, nếu ta bảo một người học trò nho rằng: “Cái chữ của bác học đó là chữ của nước ngoài, sao bác không học tiếng nước mình, sao lại bỏ của mình mà đi mượn của người cho nó phiền”, tất họ kinh ngạc không hiểu là chuyện chi, rồi cười mà cho mình là người cuồng. Tất trong bụng họ nghĩ: “Chữ của ông cha, của tổ tiên mình, vẫn học xưa nay, của cả nước mình tự vua quan cho đến người thường dân ai cũng biết, sao lại gọi là trong với ngoài? Sao lại gọi của mình với của người? Anh này gàn thật? Vẫn biết rằng chữ Nho là từ Tàu đem sang, nhưng đem từ đời kiếp nghiệp lai nào, mình học đã tự bao giờ đến giờ, thì là chữ của mình chứ, còn của ai”.





Duy Nguyên Trần Ngọc Dụng




Định mệnh trớ trêu khiến cho kho tàng chữ Việt chúng ta có đến 29% chữ Nho dùng chung với chữ thuần

Việt và 60-70% chữ Nho dùng lẫn lộn với tiếng Việt. Nói như vậy có nghĩa là, một số chữ không còn chữ thuần
Việt để dùng mà phải dùng chữ Nho. Thí dụ: Khoa học (科學) là một ngành học thuật (學術) dựa trên đo
lường và tiêu chuẩn hoá1 (標準). Nay có người không đồng ý cách nói này thì chúng ta thay thế các chữ
nghiêng: khoa học, học thuật, tiêu chuẩn hoá, bằng chữ gì? Rất may chúng ta dùng chữ gọi là chữ Nho chứ
không nói theo lối Tầu ghi trong hai dấu ngoặc { }2: khoa học {kēxué}, học thuật {xuéxshù}, tiêu chuẩn hoá
{biāozhǔnhuà}. Qua đây, chúng ta nên tự hào về tài trí của cha ông ta đã phát kiến lối chuyển tự “transliteration” để một mặt phải chấp nhận chữ Nho theo chủ trương đồng hoá dân Việt, một mặt không làm mai một tiếng Việt.
1 Đây là định nghĩa do tôi nghĩ ra dựa theo phương pháp chiết tự những chữ hội ý của Tầu.
2 Dấu này chỉ hình thức “bính âm” tức pinyin hiện nay Tầu cộng đang dùng để phân biệt dấu [] dùng để phiên
âm theo lối ngữ âm (phonetic transcription)

Không một ngôn ngữ nào tự vỗ ngực xưng tên là có vốn từ-vựng độc lập hay thuần tuý cả. Đó là vì không
một dân tộc nào đứng riêng rẽ trong cộng đồng thế giới. Ngôn ngữ luôn luôn bị pha trộn qua hôn nhân, buôn
bán, giao tiếp, v.v... nên thường chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Tiếng Việt của chúng ta, vì hoàn cảnh đặc biệt, sự
pha trộn hơi bất thường do bị áp đặt, chứ không theo lẽ tự nhiên như nhiều trường hợp khác. Chẳng hạn,
tiếng Anh có trên 10 ngàn chữ gốc Celtic bao gồm các chữ trong nhóm Common Brottonic, Gaulish, Irish,
Scottish Gaelic, Welsh; ba ngàn chữ Ả-rập: $# أم amīr > admiral, ة) ال طو al-tūba | at-tūba > adobe,
ت. عرف ʿifrīt > afrit (mythology), الغطّاس al-ghattās > albatross, ال ك يم ياء al-kīmīāʾ > alchemy, chemistry,
ال كحل al-kohl > alcohol, và rất nhiều chữ gốc Pháp, như abaissier > abase, esbaїr > abash, abatre > abate,
abatement/abattement > abatement; Tây-ban-nha: abacá > abaca, Ohlone aluan > abalone, el lagarto >
alligator, anchoa > anchovy; Ý: maestro > master, mandolino > mandolin, quartetto > quartet,
quintetto >quintet, sestetto > sexte, solista > soloist, v.v...; Hy-lạp và La-tinh, không tiện kể ra đây vì quá
nhiều.
Riêng tiếng Việt do bị đô hộ (xâm chiếm và cai trị - QĐB) trên một ngàn năm nên có khoảng 29% từ-ngữ của họ thay thế tiếng Việt thuần tuý (Hán: nguyên bản, nguyên gốc - QĐB) như dấu > yêu (< ái), chác > mua (< mại), cái dôn > vợ chồng (<trượng phu và lão bà), v.v…
Điểm cần nhấn mạnh là, không ai có thể thay đổi được quá khứ. (Việt: đã qua - QĐB) Với số lượng chữ chiếm đến 29% từ gốc Hán, tiếng Việt không thể nào trở lại nguyên hình ("!" Chữ Việt dùng hình có ở thời đồ đá, nên dùng chữ nguyên gốc - QĐB) của thời kỳ từ 111 Trước Tây Lịch (TTL) được. Bản thân người viết lời phê bình cũng không tránh khỏi. Những chữ tô vàng trong bài của người phê bình cũng không ít chữ gốc Hán! Điều cần minh định là phải phân biệt “từ gốc Hán” (Sino-original) với “tiếng Tầu hiện tại” (modern Chinese) như đã nói như trên.
Với chủ trương thôn tính Việt Nam, Tầu cộng đã nặn ra Đảng Cộng Sản Việt Nam để thi hành mưu đồ đó.
Họ từ từ thay thế chữ Nho bằng tiếng Tầu hiện đại vì họ biết rõ “ngôn ngữ là chiếc xe chuyên chở văn hoá”.
Thay đổi được ngôn ngữ là xoá sạch được văn hoá! Thâm độc vô cùng.
Cần có sự phân biệt sự khác nhau đó như sau:
Hãy so sánh một vài từ-ngữ biến cải hay thay đổi trong khoảng 1954 đến 1975 giữa hai miền
Nam Bắc:

Bảng 1
Trước năm 1954        Tại miền Bắc              Tại miền Nam            Nghĩa tiếng Anh
    ghi-đông                    ghi đông                       ghi-đông                    steering bar (French ‘guidon’)
    nạn nhân                   nạn nhân                      nạn nhân                      victim     
    phụ tá                        phụ tá                           phụ tá                        assistant
   quan thuế                  quan thuế                      quan thuế                    customs
     liên lạc                       liên lạc                          liên lạc                     to contact
thượng tầng kiến       thượng tầng kiến trúc    thượng tầng kiến trúc       suprastructure
trúc
   hạ tầng cơ sở            hạ tầng cơ sở                hạ tầng cơ sở              infrastructure
    thủ phạm                   thủ phạm                      thủ phạm                     culprit

Sau Hiệp Định Geneva (gốc Genève, Việt: Geneva - QĐB) thì sao? Được sự bảo bọc của cán bộ cộng sản Tầu làm cố vấn (Hán) trong Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Đất cùng với sự phụ hoạ ("Hán" Việt: tán thành, ủng hộ - QĐB) của các cán bộ cộng sản Việt Nam được gửi sang Tầu để học tập rồi trở về với những nhiệm vụ mới, những từ-ngữ của Tầu dần dần thay thế hầu hết các từ-ngữ tiếng Việt truyền thống.
Sau đây là một vài thí dụ về sự thay đổi rất lớn trong cách sử dụng từ ngữ mới và cũ. Bảng 1 ghi rõ những từ-ngữ khác nhau, ngay sau khi hiệp định Genève được ký kết vào ngày 20 tháng 7 1954.

Bảng 2
Sau năm1954                Tại miền Bắc                       Tại miền Nam                          Nghĩa tiếng Anh
ghi-đông                         ghi đông                                tay lái                          steering bar(French, guidon)
nạn nhân                        kẻ bị hại                              nạn nhân                                    victim
phụ tá                              trợ lý                                    phụ tá                                    assistant
quan thuế                       hải quan                              quan thuế                                 customs
liên lạc                         liên hệ (relate)                          liên lạc                                   to contact
thượng tầng kiến              vĩ mô                         thượng tầng kiến trúc             suprastructure
trúc
hạ tầng cơ sở                   vi mô                                hạ tầng cơ sở                            infrastructure
thủ phạm                      kẻ thủ ác                                 thủ phạm                                  culprit
máy điện toán                  n/a                                   máy điện toán                             computer

Bảng 3
Từ-ngữ du nhập trực tiếp của Tầu   Tại miền Bắc từ năm 1954    Tại miền Nam đến 1975      Nghĩa tiếng Anh
 大灶[dàzào}                                             đại táo                                ăn chung                   mess hall                                                                                                                                                                     海關 [hǎi guān}                                        hải quan                              quan thuế                  customs
後勤 [hòu qín}                                         hậu cần                                quân nhu                   logistics    
連系 [liánxì}                                            liên hệ
                                   liên lạc                     contact
戶口[hù kǒu}                                           hộ khẩu                    tờ khai gia đình registered residence   
离婚 [líhūn}                                              ly hôn                                      ly dị                      divorce          

目椘眎[mù chǔ shì}                               mục sở thị                            thấy tận mắt                witness
首長[shǒu zhǎng}                                   thủ trưởng                            trưởng đơn vị             senior official
助理 [zhù lǐ}                                              trợ lí                                      phụ tá                    assistant
思維 [sī wéi}                                            tư duy                                    suy nghĩ  thought, thinking
出口[chū kǒu}                                        xuất khẩu                                xuất cảng                   export
Source: Chinese Character Dictionary Online

Kết quả là hiện nay, đã có hàng ngàn từ-ngữ mới du nhập trực tiếp của Tầu và được thêm vào kho tàng từ vựng tiếng Việt.
Như đã nói, do hậu quả hơn 1000 năm bị người Tầu đô hộ, và do sự tiếp xúc miễn cưỡng do áp đặt giữa hai ngôn ngữ, trong kho tàng tiếng Việt có khoảng 60-70 phần trăm từ gốc Hán5 dùng pha trộn với tiếng Việt dưới 3 hình thức: Hán-Hán, Hán-Việt, Việt-Hán:
Hán-Hán: huynh đệ ‘anh em’, phụ mẫu ‘cha mẹ’, phu thê ‘chồng vợ6’ sơn thuỷ ‘núi sông’, bằng
hữu ‘bạn bè’, thương mại ‘buôn bán’, quốc gia ‘nước nhà’, thống khổ ‘đau đớn, khổ sở’, phong trần ‘gió bụi’, xú uế ‘mùi làm buồn nôn’…
Hình thức này gồm hai từ khác nhau kết hợp thành mối liên kết.
Hình thức tiếp theo là dạng song tiết gồm hai chữ cùng nghĩa tạo thành một cặp.
Hán-Việt: chi nhánh, thâm sâu, kỳ lạ, hiền lành, toàn vẹn, trợ giúp, linh thiêng, phế bỏ, mê say,
trụ cột, tuyến đường, …
Việt-Hán: chia ly, dối trá, đường thuỷ, rèn luyện, điên cuồng, nghề nghiệp, khen thưởng, mến mộ, dối trá, sâu thẳm7, thượng lên (bàn, ghế, chỗ cao), thợ mộc, cửa khẩu, nghề nghiệp, …
5 Lý Lạc Nghị &Jim Waters, Tìm Về Cội Nguồn chữ Hán, nhà xuất bản Thế Giới Việt Nam, 1998:ix.
6 Người Việt nói vợ chồng, không nói chồng vợ.
7 Biến âm của chữ thâm.

Hình thức trên gồm hai từ kết hợp với nhau để tạo nghĩa mới.
Việt-Việt: heo quéo, mặn mà, chợ búa, rừng rú, bán chác/đổi chác, nôm na, bẽn lẽn, sâu rộng,
chân tay, đau đớn, nhà cửa, hôi thúi, gió bụi, …
Tuy nhiên, với ý hướng thoát khỏi ảnh hưởng của tiếng Hán, rất nhiều từ-ngữ được Việt hoá cả âm lẫn nghĩa. Theo đó những từ-ngữ mới mang nghĩa mới mà chỉ người Việt với nhau mới hiểu rõ.
Bảng 4 giới thiệu vài từ-ngữ để chứng minh sự khác nhau về hai nghĩa dựa trên cùng một từ-ngữ.

Bảng 4
Chữ Tầu và cách đọc             Nghĩa theo chữ Tầu                  Âm Việt Hoá              Nghĩa Việt hoá
子細 {zixi}                                  meticulous                              tử tế                     kind-hearted
小心 {xiǎo xīn}                              careful                                tiểu tâm                self-fish, picky
馬上 {mǎ shàng}                  at once; right away;                   mã thượng                     noble
                                                 immediately                      
和好 {hé hǎo}                     to become reconciled                      hoà hảo                     harmony
安排 {ān pái}                to arrange; to plan; to set up                an bài                      predestine
人名{rénmíng}                         personal name                        nhân danh                 on behalf of
模仿{mófăng}                    reproduce, imitate, copy                 mô phỏng                      adopt
認識{rènshi}                      to know; to be familiar                   nhận thức                    to realize
                                             with; to recognize
摸仿{mō fǎng}                              imitation                             dựa theo                        adapt
Source: Chinese Character Dictionary Online

Khuynh hướng trên đây giúp cho tiếng Việt trở nên phong phú hơn và không hoàn toàn chịu ảnh hưởng trực tiếp của chữ Tầu. Thật vậy, tuy hai chữ Việt–Tầu cùng nghĩa: ngoài = ngoại: hàng ngoài ≠ hàng ngoại; đẻ = sanh: đẻ trứng ≠ sanh con; tre = trúc: khóm tre ≠ khóm trúc; đệ = em, tử = con: đệ tử ≠ con em; bụi = trần: bụi đời ≠ trần đời; … Chưa kể tiếng Tầu rất “nghèo” về chữ nghĩa.
Chẳng hạn mô phỏng: làm theo, dựa theo, bắt chước; hư cấu: bịa chuyện, tưởng tượng, đặt điều (chuyện không có thật - QĐB) Do đó, khi dùng chữ gốc Hán cũng nên cẩn thận kẻo người đọc có thể hiểu lầm.
Qua đó, báo chí và truyền thông hải ngoại (nước ngoài - QĐB) không nên tiếp tay cho đám cầm quyền cộng sản mà nên loại trừ các loại từ ngữ “lai Tầu” để dạy cho con em tại hải ngoại! Một điều không thể chấp nhận được chiếu theo tinh thần bảo tồn (gìn giữ - QĐB) và phát triển ngôn ngữ truyền thống (thuần Việt - QĐB).
Tiếp đến tác giả quên rằng, khi có sự tiếp xúc của hai ngôn ngữ, người Tầu cũng chịu ảnh hưởng của người Việt và từ đó tiếng Tầu cũng có gốc tiếng Việt. Dưới đây là một số chữ gốc Việt trong chữ Hán.

1. Về cây cỏ, chẳng hạn như cây cau qua chuyện Trầu Cau dưới thời Hùng Vương. Chữ cau là âm trại của chữ a¬aykka trong tiếng Mã-lai, như chữ soong đọc trại từ chữ casserole của tiếng Pháp.
Tiếng Anh nói dựa theo tiếng La-tinh là areca. Người Tày gọi cau là mày làng, người K’Ho gọi là pơ lạng. Người Tầu viết và phiên âm thành 檳榔 {bīng lang} và âm Hán-Việt chuyển tự là tân lang.
2. Cây chuối ‘banana’ của người Việt xuất phát từ tiếng Nam Á, nên người Khờ Me thì nói là chec, người Hán phiên âm thành {jiāo} 蕉 ‘tiêu’. Ngày nay chúng ta có loại chuối tiêu để chỉ loại chuối trái hình dáng nhỏ hơn so với các loại chuối khác như sứ, ba lùn, đá, hột, ba hương, v.v…
3. Thí dụ nữa là gừng ‘ginger’ loài thuốc quý của phương Nam, nếu dùng khi còn tươi có tác dụng trị cảm, tiêu hoá; dùng khô thì có tác dụng giữ người ấm và xua tan cái lạnh nhập vào người.
Nguyên chữ gừng xưa đọc là keng, người Hán mượn âm {keng} đó mà viết thành 薑 {jiāng}, sau đó người mình đọc trại âm {jiāng} ra là khương. Có hai loại sanh khương ‘gừng tươi’ và can khương ‘gừng khô’ như đã nói.
4. Tương tự, trái trám ‘canarium harveyi’ nguyên là trái klam; Hán thượng cổ nghe thành blàu nên từng gọi là bồ lưu. Về sau đổi thành cảm lãm và viết là 橄欖 {gǎn lǎn} cho hợp với âm nguyên thuỷ của klam. Lưu ý, người Tầu không nói được phụ âm ghép nên thường ra thành hai âm đơn.
Thí dụ: tiểu bang Florida họ viết thành 弗洛里亚 (Fú luò lǐ yǎ) tức Phất ‘chẳng, trừ đi’, lạc ‘sông Lạc, họ Lạc, Lạc Dương’, lí ‘nhà ở, làng, dặm (360 bước – công lí (1000m), á ‘thứ hai, châu Á’; hoặc Oklahoma 俄拉何馬州 (É kè lā hé mǎ zhōu) tức Nga ‘chốc lát, nước Nga’, lạp ‘bẽ gãy, kéo lôi, chuyên chở’, khắc ‘hiếu thắng, làm được’ mã ‘con ngựa’ châu ‘cồn đất’.
5. Một loài thực vật (cây cỏ, hoa, lá - QĐB) rất được người Việt ưa chuộng và ca tụng là cây sen ‘lotus’. Nguyên xưa, người Việt nói là kren, người Hán nghe thành {lián} 蓮 người Việt đọc trại thành liên < kren > sen.
Trước khi gặp cây sen, người Hán chỉ có loại sen mọc trên khô gọi là cây hà 荷 {hé} hay còn gọi là 芙蕖 {fúqú} đọc thành phù cừ, hạt của nó gọi là liên ‘lotus seed’.
6. Một loại cây khác ở xứ lạnh không có là cây dừa ‘coconut tree’. Người mình gọi là dừa từ chữ cổ da. Người Hán gọi là 椰 {yē} da >椰子{yē zi} đọc là da tử. Cùng giống với loại dừa, cây bang 桄榔 {guāngláng} quang lang < blang < klang > cây bang ‘palm’. Còn có tên là cây đoác.
7. Cây mía cũng là một trong những sản phẩm đặc trưng của phương Nam. Ngày xưa trong giai đoạn trước tiền sử, người Việt sống bằng hái lượm nên khám phá ra tổ ong chứa nhiều mật và dùng mật trước tiên. Khi khám phá ra chất ngọt trong cây mía, nghề làm đường mới phát triển. Lúc bấy giờ các dân tộc phương Nam gọi đường ‘sugar, sweet, candy’ là toong nên khi người Hán du nhập chữ đường vào chữ viết của họ thành 糖 {táng} tức tang. Do vậy mới có thể hiểu tại sao nói về triều đại nhà Đường thì tự điển Anh-Mỹ viết là Tang Dynasty (618–907 sau tây lịch).
8. Ngay cả con gà ‘chicken, rooster’ là giống vật có mặt tại Việt Nam, Thái Lan trên 10 ngàn năm trước. Lúc bấy giờ người mình gọi giống vật này là rka và dần dà biến thành gà. Khi người Hán tiếp xúc với dân ta họ mới biết đến nó và đọc trại ra là kê 雞 {ji}, do biến cách của rka > kja > kjie < {jié} 桀.Qua chữ sen /kren/ và gà /rka/và gần đây nhất là chữ Paris > Ba-lê thì thấy rõ tiếng Hán không hề có âm /r/ do ký hiệu mẫu tự “r” tiêu biểu, đều biến mất khi trở thành âm Hán. Đánh xáp lá cà cũng là do chữ rka này mà ra; tức là đánh cận chiến y hệt hai con con gà chọi đá nhau.
9. Sử truyền rằng cuối thời vua Hùng Vương thứ mười tám Thục Phán cướp ngôi. Lúc bấy giờ Tần Thuỷ Hoàng đã gồm thâu sáu nước và lập nên đế chế đầu tiên tại đất Tầu rồi tự xưng hoàng đế. Tần Thuỷ Hoàng bèn muốn thôn tính (xâm chiếm - QĐB) luôn nước Âu Lạc của ta nên nhiều lần đem quân sang đánh. Thế nhưng người Việt lúc bấy giờ đã có vũ khí đặc biệt bắn ra một lúc nhiều mũi tên do tướng Cao Lỗ sáng chế (làm ra - QĐB) gọi là cái nỏ. Do vậy mà mưu đồ của Tần Thuỷ Hoàng luôn luôn thất bại. Đến khi Triệu Đà là một thái thú ở miền Nam nước Tầu nổi loạn và muốn tách ra khỏi quyền cai trị của nhà Tần nên đã tìm cách chiếm Âu Lạc lập nên “nước Nam Việt”. (Thần nỗ nhất phát sát vạn nhân” 神弩一發殺萬人 ‘Nỏ thần bắn một phát giết được muôn người.’ (Việt: nỏ thần bắn một lần giết được ngàn người - QĐB).
10. Câu chuyện Trọng Thuỷ–Mỵ Châu chứng minh hùng hồn rằng cái ná từ chữ pnar là vũ khí của người Việt chế (làm - QĐB) ra và sau đó Triệu Đà lập mưu thông gia để đánh cắp. Từ đó chữ pnar xuất hiện trong chữ Tầu là nỗ 弩 {nǔ} bằng cách ghép chữ nô 奴 nghĩa là ‘nô9 lệ’ + cung 弓 bên dưới để chỉ món vũ khí được xem là vô địch (Hán: không có từ Việt thay thế - QĐB) thời bấy giờ: pnar > cái ná > nỏ ‘cross-bow’ > 弩 nỗ (âm Hán) sau khi nhập trở lại vào đất Việt.
11. Nguồn gốc người Hán xuất phát từ khu vực con sông gọi là Hoàng hà 黃河 nằm sâu trong đất liền. Lúc bấy giờ họ chỉ biết có nhiều con sông nối với nhau: sông con nối với sông lớn chảy từ nơi này sang nơi khác chứ không có ý niệm chảy ra biển. Do vậy họ chưa có chữ giang. Đến khi lấn chiếm các vùng lân cận ra đến biển về hướng đông và hướng nam, họ học thêm được chữ giang này: 江 {jiāng} ‘river’ giang < sông < krong10 > ‘kong’. Sông Mê-kông là dấu vết còn lại của chữ “kong” này trong tiếng Việt hay trong các tiếng của người sơn cước (người vùng núi - QĐB).
12. Tương tự, việc đi lại trong đất liền không bao giờ cần bè: 筏 {fá} phiệt f < b < bak cái bè
13. Kể cả một vài khoáng chất (Hán - Việt: tài nguyên) người Hán cũng không có nên phải vay mượn của người Việt, như đồng ‘copper’ do chữ toong mà ra. Họ dùng chữ 同 {tóng} ‘cùng’ + 金 ‘kim’ thành chữ 銅 vẫnđọc là {tóng}.

Hiện nay, vấn đề trước mắt là cần xác định cách dùng chữ gốc Hán một cách cẩn thận và chính xác, không dùng tiếng Tầu hiện tại ‘modern Chinese’.
Khi dùng tên người Tầu hiện nay, không nên dùng lối chuyển tự (translitertion) như ngày xưa mà nên dùng theo lối bính âm (pinyin) vì lối này đã được quốc tế hoá rồi. Thí dụ: người cầm đầu Tầu cộng là Xi Jinping (習近平) chứ không nên viết thành Tập Cận Bình. Vì sao? Ngày xưa chỉ có người Việt và người Tầu với nhau, nên cần chuyển tự để khi nói chuyện, trao đổi giữa người Việt với nhau, người Tầu không hiểu được. Nay nếu tiếp tục dùng như cũ thì có người ngoại quốc không biết chúng ta đang nói gì về nhân vật đó. Nên dùng cùng cách với thế giới.

Vài giòng góp ý để tìm sự thông cảm và đồng thuận trong việc sử dụng tiếng Việt sao cho hợp lý, trong sáng. Xin đa tạ. (cám ơn - QĐB)

Duy Nguyên Trần Ngọc Dụng
- Giảng viên tiếng Việt tại: Santa Ana College (Trường Cao Đẵng - QĐB) , CSU Fullerton (EDSC541V)
- Trưởng ban Dịch Thuật KHC Garden Grove
- Tham vấn viên(Hán - QĐB) cho National Resources Center for Asian Languages (NRCAL)
(Trung Tâm Tài Nguyên Quốc Gia cho ngôn ngữ Châu Á - QĐB).


https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/pham_quynh-chu_nho_voi_van_quoc_ngu-a.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AF_H%C3%A1n

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Ba 20245:58 CH(Xem: 2189)
Năm 2017, khi còn làm Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ông Võ Văn Thưởng đã từng làm xã hội xôn xao với tuyên bố “không sợ đối thoại, không sợ tranh luận”. Tưởng chừng như cánh cửa đón nhận các ý kiến khác biệt đã mở rộng, sau khi luật an ninh mạng – luật không chấp nhận ý kiến khác biệt ra đời. Vậy mà, đó chỉ là lời tuyên bố vui miệng của Thưởng. Năm 2024, ông Đỗ Minh Hiền ở Hà Nội, một người viết lý luận triết học riêng, khác biệt với triết học Marx Lenin, bị 6 năm tù. Không ai biết ông ta viết gì, lập luận ra sao, vì bởi ông ta chưa bao giờ có dịp được đối thoại, hay tranh luận để nhận biết mình sai hay đúng trong giấc mơ mà...
20 Tháng Ba 20248:41 CH(Xem: 2291)
Những người đảng viên đang yêu đảng, cuồng đảng, đừng cho rằng đây là luận điệu của bọn thế lực ‘chống phá, thù địch’, mà hãy nhìn lại lời nói của lãnh tụ các người, ông Hồ Chí Minh đã từng giáo dục các đảng viên của mình là ‘cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư’, vậy thì các ông, bà nghĩ sao về những bất công, bất cập hàng ngày trông thấy từ chính những người lãnh đạo của mình?!, liệu rằng những đảng viên đảng cộng sản còn có lý tưởng hay chỉ là vào đó chỉ để noi gương tham nhũng theo cấp trên của mình?.
20 Tháng Ba 20248:40 CH(Xem: 1576)
Việc ông Thưởng từ chức đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn bất ổn chính trị mới ở Việt Nam. Kể từ Đại hội 13 của đảng Cộng sản Việt Nam hồi đầu năm 2021, đã có nhiều vụ cách chức và truy tố cấp cao, trong số đó có 4 ủy viên Bộ Chính trị (trong đó có Thưởng và người tiền nhiệm Nguyễn Xuân Phúc), một phó thủ tướng, hai bộ trưởng và hơn chục lãnh đạo tỉnh. Việc thay thế quá nhanh hai Chủ tịch nước đặc biệt đáng chú ý, vì ông Phúc cũng bị cách chức hồi đầu năm 2023, sau khi nhậm chức chưa đầy hai năm.
16 Tháng Ba 20245:57 CH(Xem: 1918)
Thực tế, trái lại, cho thấy mọi cuộc cách mạng dù tiến bộ và tích cực đến đâu, đều có khuyết điểm và cần phải tu chính thêm. Hơn nữa có những cuộc cách mạng không những hoàn toàn vắng bóng những yếu tố tích cực, mà còn mang lại tại họa cho dân tộc xuyên qua nhiều thế hệ. Điển hình là các cuộc cách mạng Cộng Sản và Hồi Giáo cực đoan mà chúng ta sẽ phân tách trong bài này. Chúng ta cũng sẽ phân tách tầm mức quan trọng chiến lược của yếu tố viễn kiến trong nhận thức của những người lãnh đạo. Yếu tố viễn kiến giữ một vai trò tối quan trọng, giúp chúng ta phân biệt giữa một cuộc cách mạng có tính tiến bộ và một cuộc cách mạng mang tính phản tiến bộ, gây tai họa cho một dân tộc và đôi khi cả nhân lọai.
13 Tháng Ba 20248:05 CH(Xem: 2346)
Bà Đinh Thảo, một nhà hoạt động nhân quyền và cũng là nghiên cứu sinh ngành khoa học chính trị, hiện đang ở tại Hoa Kỳ, nói: “Tình hình dân quyền năm nay rất ảm đạm. Có thể nói từ năm 2018, xu hướng nhân quyền ở Việt Nam đã đổi chiều đi xuống và cứ thế tệ dần. Đến năm 2023 có thể nói là tồi tệ nhất trong suốt cả một chuỗi dài mấy năm qua.” (RFA, đài Á Châu Tự do, ngày 2023.12.22 Người dân Việt Nam cũng không được quyền ra báo, lập hội, hội họp và lập đảng chính trị đối lập như quy định trong Điều 25 Hiến pháp 2013. Điều này viết: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
12 Tháng Ba 20248:11 CH(Xem: 2601)
Kính mời bạn đọc xem video clip của nhà báo - bình luận gia Ngô Nhân Dụng và cô Thu Hà Nguyễn - cựu Phó Thị Trưởng TP Garden Grove về kinh tế VN cs hôm nay, những lý do nào mà ngành xuất khẩu của VN gặp phải, và lý do chính, quan trọng nhất là bởi vì lũ sâu dân, mọt nước chúng nó đều là đảng viên, phải có bôi trơn, tham nhũng thì bọn chúng nó mới chịu làm.
09 Tháng Ba 20246:22 CH(Xem: 2227)
Bài báo của Học viện Chính trị khu vực I cũng không nêu danh tính các nhà đầu tư bước ngoài đã lợi dụng Doanh nghiệp Việt Nam để chen chân vào các vị trí chiến lược quốc phòng, nhưng với mục đích gì và cho ai? Theo quan điểm được nêu trong Tạp chí Cộng sản thì Việt Nam vẫn phải đối phó với “diễn biến hòa bình”, tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Trong nhiều năm, nhóm chữ “diễn biến hòa bình” được đảng CSVN sử dụng để chỉ “các thế lực thù địch” do Hoa Kỳ lãnh đạo nhằm thực hiện âm mưu thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam. Nhưng từ giữa nhiệm kỳ khóa VII (1991-1996), Đảng đã chỉ ra 4 nguy cơ đối với ...
09 Tháng Ba 20246:20 CH(Xem: 2223)
Thật là ngây thơ khi tin rằng Trump sẽ đánh Tầu giúp Việt Nam trong khi Trump từ chối viện trợ cho Ukraine chống Nga xâm lăng. Trump chi biết có tiền và gái. Về chính trị, Trump chủ trương “Nước Mỹ Trước Hết” (America First), “Chủ Nghĩa Dân Tộc Thiên Chúa Giáo Da Trắng” (White Christian Nationalism), lo chuyện nội bộ, rút nước Mỹ ra khỏi Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty Organization – NATO), mang quân đội trở về Mỹ, không can thiệp vào chuyện thế giới, phục hồi chủ nghĩa không can thiệp (non-intervention) hay còn gọi là chủ nghĩa biệt lập (isolationism) vào thế kỷ XVIII và XIX và thời kỳ tiền Đệ Nhị Thế Chiến.
02 Tháng Ba 20246:44 CH(Xem: 3177)
Riêng đảng CSVN thì còn cho nhân dân ăn bánh vẽ để đỡ đói. Chẳng hạn, tuy hàng triệu dân nghèo rớt mồng tơi, bệnh hoạn, không cơm ăn áo mặc, hàng triệu trẻ em rách rưới không trường học, không đủ mì tôm sống còn mỗi ngày, nhưng điều 3 Hiến Pháp 2013 quy định một cách ngạo nghễ theo tinh thần TBT Nguyễn Phú Trọng: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
29 Tháng Hai 20247:24 CH(Xem: 2501)
Sau khi Liên xô sụp đổ nhiều người tưởng rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ cáo chung trên toàn thế giới. Nhưng không phải vậy, loại giống mới “cộng sản” đã tìm được một mảnh đất phù hợp để phát triển, đó là Trung Quốc với hệ thống tư tưởng đức trị và pháp Trị chuyên chế đã ăn sâu hàng ngàn năm, tiếp tục bắt rễ và sinh sôi để xây dựng một xã hội “đặc sắc Trung Quốc”. Đức trị ở đây là gắn liền với Nho giáo mà đứng đầu là Khổng Tử và Pháp trị là nói đến thuật cai trị theo trường phái Pháp gia trong lịch sử cổ đại của Trung Quốc mà đứng đầu là Hàn Phi.
28 Tháng Hai 20247:28 CH(Xem: 2268)
Tuổi gì không biết nhưng trong gần 4 năm qua sau khi Tổng Thống Biden nhậm chức, sự ủng hộ ông Trump một cách cuồng nhiệt của người Việt không suy giảm bao nhiêu. Căn cứ vào những bài viết, những ý kiến trên Facebook, Twitter..., cho thấy người VN tiếp tục ủng hộ ông Trump mạnh mẽ - sự ủng hộ bất chấp lẽ phải, đạo đức, sự thật về con người, bản chất của Trump - bị bóc mẻ qua những phiên tòa đã kết thúc và đang diễn ra, hơn 10 cuốn sách, hồi ký của các cộng sự viên thân tín nhất trong nội các Trump xuất bản... - mong cho ông được trở lại Tòa Bạch Ốc thêm 4 năm nữa. Để làm gì?
27 Tháng Hai 20248:26 CH(Xem: 2614)
Bốn “kiên định” này không mới. Tất cả chỉ là bản cũ sao lại từ thời kỳ được gọi là “đổi mới”, bắt đấu từ năm 1986. Vì vậy, sau 38 năm đuổi theo cái bóng không tưởng là “xã hội chủ nghĩa”, ông Nguyễn Phú Trọng phải gượng ép giải thích với nhân dân rằng: “ Vì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là lâu dài và chưa có tiền lệ, còn rất nhiều khó khăn, thách thức.” Nhóm chữ “chưa có tiền lệ” được đảng giải thích với quyết định “bỏ qua chế độ Tư bản” để “quá độ lên Xã hội chủ nghĩa”. Nhưng không ai trong đảng định hình được “mặt mũi” của xã hội này như thế nào. Vì vậy đảng đã “ấm ớ hội tề” khi tung ra chủ trương làm “kinh tế thị trường...
26 Tháng Hai 20248:27 CH(Xem: 4004)
8. Họ cố tình gài trong HP những khái niệm xung đột lẫn nhau, chẳng hạn một mặt khắc ghi nhân quyền, mặt khác cướp đi nhân quyền; hoặc một mặt thì hiến định hóa địa phương phân quyền và mặt khác lại hiến định hóa khái niệm “tập trung dân chủ” để hủy diệt “địa phương phân quyền”. 9. Họ thường xuyên đánh cắp và sau đó đánh tráo khái niệm: pháp trị biến thành pháp chế xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường thành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ cộng hòa trở thành cộng hòa xã hội chủ nghĩa, tổ quốc trở thành tổ quốc xã hội chủ nghĩa, quân đội trung thành với tổ quốc trở thành trung thành với cả đảng CSVN.
24 Tháng Hai 20245:09 CH(Xem: 3360)
Người dân hãy nhìn đội ngũ cán bộ đảng viên đảng cs hôm nay có đứa nào nghèo?, chúng toàn ở biệt phủ, đi siêu xe, hưởng thụ còn hơn bọn đế quốc tư bản, thậm chí con cái bọn chúng được cho đi du học cũng không học tại những quốc gia cs mà chỉ toàn những đất nước tư bản, còn người dân thì sao? tất cả đều nghèo hèn, cho dù có mức sống dễ chịu hơn ngưỡng nghèo nhưng những quyền cơ bản của con người như quyền được nói, được phát biểu chính kiến, quyền dân chủ như tự ứng cử, tự lập đảng phái, hội đoàn đều bị cấm đoán và phạt tù, tất cả đều là những công dân cộng sản, bị đánh số theo dõi qua những cái căn cước có gắn chip...
22 Tháng Hai 20248:02 CH(Xem: 1934)
Tác giả cho rằng, các Nhà Nho luôn muốn thần thánh hoá các bậc lãnh đạo, nhưng Hàn Phi – triết gia đại diện phái Pháp trị của Trung Quốc, từ thời nhà Tần – đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh của họ, và coi vua cũng chỉ là một người bình thường như những người khác. Ông nêu rõ “pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thoả lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành…” Tiếc thay, tác giả bình luận, ông Trọng lại quan tâm đến trách nhiệm chính trị và nghĩa vụ nêu gương, chứ không phải là hành vi vi phạm.
17 Tháng Tư 2024
ngoại giao của nước VNcs tùy theo từng thời điểm, có thể khi công bố Sách Trắng Quốc Phòng năm 2009 thì TQ chưa có những hành vi manh động hung hăng như hôm nay, thế nhưng khi công bố lần thứ hai năm 2019 khi TQ gia tăng cường độ lấn chiếm thì chủ trương của Việt Nam vẫn không thay đổi, điều đó đặt ra một câu hỏi là liệu nhà cầm quyền csVN vẫn chấp nhận không thay đổi đường lối quốc phòng trong khi chủ quyền quốc gia đang bị đe dọa nhằm đổi lấy một nền hòa bình nhu nhược, yếu ớt, và sự độc lập đang bị chỉ trích khi dân chúng nhìn thấy giới lãnh đạo TQ xem đảng csVN như thủ hạ của mình...
17 Tháng Tư 2024
Ở tấm thứ nhất, hình một viên cảnh sát mặc bộ quần áo màu kem, nón kết cũng màu kem là điều hoàn toàn sai. Đồng phục của cảnh sát VNCH là áo trắng, quần xám, áo 2 túi, nút áo trên gần sát cổ, không hở cổ hoặc phanh ngực, bên trên túi phải có bảng tên, tay áo trái có huy hiệu cảnh sát. Nón kết cũng trên trắng, viền xám ở dưới. Huy hiệu có dòng chữ Tổ Quốc, Công Minh, Liêm Chính khác với huy hiệu của quân đội là Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Cái chào tay của người trong hình cũng sai không đúng quân phong, quân kỷ. Khi chào, lòng bàn tay phải úp xuống, ngón cái hơi quặp lại, 4 ngón còn lại duỗi thẳng khép vào nhau, cánh tay...
12 Tháng Tư 2024
Hai nhóm gồm hơn 30 nhà lập pháp Mỹ hồi cuối tháng 1 đã gửi các bức thư chung tới Bộ trưởng Raimondo để kêu gọi chính quyền Biden không công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam. Họ lập luận rằng Việt Nam không đáp ứng các yêu cầu về thủ tục để thay đổi tình trạng và cho rằng việc cấp quy chế này cho quốc gia Đông Nam Á sẽ là “một sai lầm nghiêm trọng.” Kể từ năm 2002, khi Mỹ bắt đầu vụ điều tra chống bán phá giá đầu tiên đối với cá phi lê đông lạnh nhập từ Việt Nam, Washington coi quốc gia Đông Nam Á là một “nền kinh tế phi thị trường.” Trong 21 năm qua, Mỹ đã áp thuế chống phá phá giá đối với nhiều mặt hàng...
11 Tháng Tư 2024
Suy nghĩ gần giống như Phan Châu Thành, Minh Tâm Lê: Hy vọng sắp tới, khi ngắm tượng, nhân dân Nghệ An sẽ khơi dậy được sự tự hào truyền thống, không còn ‘xin gạo cứu đói khi giáp hạt’, không còn chứng kiến những thảm cảnh đau lòng như con em chui vào container” để sang lao động ở Anh, ở châu Âu, không còn cảnh leo hàng rào ở biên giới Mexico - Mỹ để thế lực thù địch, phản động bôi nhọ. Tin tưởng vào một ngày mai tươi mới
10 Tháng Tư 2024
Chủ trương “đảng hóa các tổ chức người Việt ở nước ngoài” là một chính sách từ thập niên 80 nhưng đảng giả bộ như không biết nên đã tìm cách phủ nhận: “Thậm chí các đối tượng còn rêu rao rằng, Việt Nam đang tìm cách “đảng hóa” với cả những hội, đoàn trong tương lai mà Đảng hậu thuẫn tại hải ngoại! Các đối tượng cố tình xuyên tạc, vu cáo rằng kể từ Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đến Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài được triển khai “thực chất là những chiêu trò ru ngủ giả hiệu dân chủ”!
08 Tháng Tư 2024
Để trả lời vấn nạn này, trước hết chúng ta nhận xét ngay rằng, tuy hiện giờ CSVN tôn CSTQ là quan thầy, tuy nhiên trong tương quan giữa quân đội và công an thì quân đội CSTQ giữ vai trò vượt trội hệ thống công an. Các cấp bậc chính thức trong công an TQ không rập khuông quân đội, như công an Việt nam. Tuy công an TQ cũng giữ vai trò kiểm soát nhân dân, nhưng uy tín thấp hơn quân đội rất nhiều. Tình trạng tại Việt Nam thì ngược lại. Bộ trưởng công an Tô Lâm và guồng máy công an hầu như làm lu mờ quân đội và mọi khía cạnh khác của bộ máy công quyền. Chỉ cần nhìn vào con số 2 triệu công an bán chuyên trách mà Tô Lâm....
04 Tháng Tư 2024
Dân đóng thuế để trả lương cho cơ quan công quyền, công an…. Để bảo vệ cho họ. Nhưng cơ quan công quyền, công an lại thất trách, không lo bảo vệ nhân dân, mà chỉ lo đi bảo vệ Đảng. CA báo kê các vụ cướp đất, cướp nhà, bảo vệ bọn quan chức tham nhũng, bắt bớ, đánh đập dân lành. Nhiều cái ch.ết của người dân trong đồn công an khi họ được mời lên làm việc…đã nói lên được bản chất man rợ, ác ôn của chúng! Đừng hỏi tại sao dân mất lòng tin nơi đảng! Lòng tin là một thứ xa xỉ của nhân dân đối với Đảng và chính quyền!
02 Tháng Tư 2024
Lý do QĐND viết như thế vì ai cũng biết Chủ nghĩa Cộng sản đã “tiêu diệt con người và xã hội Việt Nam” kể từ khi ông Hồ du nhập vào Việt Nam năm 1930. Trong 94 năm có mặt trên đất nước, đảng CSVN đã gây ra hai cuộc “nội chiến huynh đệ tương tàn”, ròng rã 30 năm 1945-1975 làm mất đi khối nhân lực trên 4 triệu con người, đất nước bị tàn phá không lời nào tả xiết. Vì vậy, khi có khuynh hướng chống lại để bảo vệ đất nước thì các cơ quan thông tin chủ chốt của đảng đã kiên quyết - bảo vệ Chủ nghĩa Cộng sản gắn liền với tư tưởng Hồ Chí Minh đế được tiếp tục lãnh đạo. Hơn ai hết, họ cũng biết rằng nếu tách riêng “tư tưởng Hồ Chí Minh ra...
02 Tháng Tư 2024
Hai tháng kể từ khi nhân vật số hai của Công an Trung Quốc xuất hiện ở Hà Nội, ngày 11/3/2024, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Bắc Kinh đã không còn úp mở, thẳng thừng cảnh cáo Hà Nội: ‘Việc tham gia các khối có mục đích ‘đối đầu’ và ‘bè phái’ là không phù hợp’ (4), ngay sau khi Việt Nam và Australia vừa thiết lập quan hệ CSP. Giới quan sát nhận định rằng lời cảnh báo như vậy cho thấy sự lo ngại của Bắc Kinh giữa các nỗ lực của Hà Nội muốn mở rộng các quan hệ đa phương. Bắc Kinh tiếp tục dạy khôn Hà Nội: ‘Không bao giờ được trở thành bên ủy nhiệm cho bất kỳ phe phái nào và không bao giờ được lao vào vòng xoáy cạnh tranh...
30 Tháng Ba 2024
Còn chuyện có gắng làm ra vẻ trung lập của mình qua vụ tổ chức Hội Nghị Hoa Kỳ và Bắc Hàn dưới thời TT. D. Trump hay đề xuất làm trung gian hòa giải TQ- Mỹ của ông Sơn mới đây chỉ là trò tào lao, bởi vì không riêng gì nước Mỹ mà cả thế giới đều thấy được đảng csVN đã chọn phe theo trục ác khi chỉ đạo cho Đại Sứ Đặng Hoàng Giang tại LHQ 3 lần bỏ phiếu trắng không lên án nước Nga xâm lăng Ukraine. Vì thế Ngoại Trưởng Bùi Thanh Sơn có cố gắng dùng ba tấc lưỡi để thuyết khách như Tô Tần năm xưa cũng khó mà lừa được ai, bởi vì sau chuyến công du Mỹ ông ta lại có buổi hội đàm cùng tên Ngoại Trưởng cáo già Vương Nghị tại Bắc Kinh!.