BÀN LOẠN CHỮ NGHĨA CÙNG CÁC HỌC “GIẢ” HẢI NGOẠI
Quyền Được Biết
Thời gian vừa qua nổi lên việc ông tiến sỹ loài khỉ Bùi Hiển trình làng cái phiên bản cải tạo chữ Quốc ngữ không giống ai của mình, Tây không ra Tây, Tàu không ra Tàu làm cho bàn dân thiên hạ ầm ào phản đối, thế nhưng trong làn sóng đó lại có cái được gọi là “Bảo tồn văn hóa Việt” của những người sinh sống trong quốc gia VNCH đưa ra, tuy nhiên nếu nhìn vào bảng phân tích dưới đây về hai loại chữ trước và sau năm 1975 thì chúng ta cần phải xem xét lại một cách khách quan về cái được gọi là ngôn ngữ của miền nam Việt Nam trước năm 1975.
Trích nguồn không ghi tên tác giả:
TỪ NGỮ VC TỪ NGỮ VNCH
Ấn tượng Đáng ghi nhớ, đáng nhớ
Bác sỹ / Ca sỹ Bác sĩ / Ca sĩ
Bang Tiểu bang (State)
Bắc bộ / Trung bộ / Nam bộ Bắc phần / Trung phần / Nam phần
Báo cáo Thưa trình, nói, kể
Bảo quản Che chở, giữ gìn, bảo vệ
Bài nói Diễn văn
Bảo hiểm (mũ) An tòan (mũ)
Bèo Rẻ (tiền)
Bị (đẹp) Không dùng động từ “bị;” chỉ dùng tĩnh từ (đẹp)
Bồi dưỡng (hối lộ?) Nghỉ ngơi, tẩm bổ, săn sóc, chăm nom, ăn uống đầy đủ
Bóng đá Túc cầu
Bức xúc Dồn nén, bực tức
Bất ngờ Ngạc nhiên (surprised)
Bổ sung Thêm, bổ túc
Cách ly Cô lập
Cảnh báo Báo động, phải chú ý
Cái Alô Cái điện thọai (telephone receiver)
Cái đài Radio, máy phát thanh
Căn hộ Căn nhà
Căng (lắm) Căng thẳng (intense)
Cầu lông Vũ cầu
Chảnh Kiêu ngạo, làm tàng
Chất lượng Phẩm chất tốt (chỉ đề cập phẩm “quality,” không đề cập lượng “quantity”)
Chất xám Trí tuệ, sự thông minh
Chế độ Quy chế
Chỉ đạo Chỉ thị, ra lệnh
Chỉ tiêu Định suất
Chủ nhiệm Trưởng ban, Khoa trưởng
Chủ trì Chủ tọa
Chữa cháy Cứu hỏa
Chiêu đãi Thết đãi
Chui Lén lút
Chuyên chở Nói lên, nêu ra
Chuyển ngữ Dịch
Chứng minh nhân dân Thẻ Căn cuớc
Chủ đạo Chính
Co cụm Thu hẹp
Công đoàn Nghiệp đoàn
Công nghiệp Kỹ nghệ
Công trình Công tác
Cơ bản Căn bản
Cơ khí (tĩnh từ!) Cầu kỳ, phức tạp
Cơ sở Căn bản, nguồn gốc
Cửa khẩu Phi cảng, Hải cảng
Cụm từ Nhóm chữ
Cứu hộ Cứu cấp
Diện Thành phần
Dự kiến Phỏng định
Đại học mở (??? : Chịu thua không thể hiểu được.)
Đào tị Tị nạn
Đầu ra / Đầu vào Xuất lượng / Nhập lượng
Đại táo / Tiểu táo Nấu ăn chung, ăn tập thể / Nấu ăn riêng, ăn gia đình
Đại trà Quy mô, cỡ lớn
Đảm bảo Bảo đảm
Đăng ký Ghi danh, ghi tên
Đáp án Kết quả, trả lời
Đề xuất Đề nghị
Đội ngũ Hàng ngũ
Động não Vận dụng trí óc, suy luận, suy nghĩ
Đồng bào dân tộc Đồng bào sắc tộc
Động thái Động lực
Động viên Khuyến khích
Đột xuất Bất ngờ
Đường băng Phi đạo
Đường cao tốc Xa lộ
Gia công Làm ăn công
Giải phóng Lấy lại, đem đi… (riêng chữ này bị VC lạm dụng rất nhiều)
Giải phóng mặt bằng Ủi cho đất bằng
Giản đơn Đơn giản
Giao lưu Giao thiệp, trao đổi
Hạch toán Kế toán
Hải quan Quan Thuế
Hàng không dân dụng Hàng không dân sự
Hát đôi Song ca
Hát tốp Hợp ca
Hạt nhân (vũ khí) Nguyên tử
Hậu cần Tiếp liệu
Học vị Bằng cấp
Hệ quả Hậu quả
Hiện đại Tối tân
Hộ Nhà Gia đình
Hộ chiếu Sổ Thông hành
Hồ hởi Phấn khởi
Hộ khẩu Tờ khai gia đình
Hội chữ thập đỏ Hội Hồng Thập Tự
Hoành tráng Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ
Hưng phấn Kích động, vui sướng
Hữu hảo Tốt đẹp
Hữu nghị Thân hữu
Huyện Quận
Kênh Băng tần (Channel)
Khả năng (có) Có thể xẩy ra (possible)
Khẩn trương Nhanh lên
Khâu Bộ phận, nhóm, ngành, ban, khoa
Kiều hối Ngoại tệ
Kiệt suất Giỏi, xuất sắc
Kinh qua Trải qua
Làm gái Làm điếm
Làm việc Thẩm vấn, điều tra
Lầu năm góc / Nhà trắng Ngũ Giác Đài / Tòa Bạch Ốc
Liên hoan Đại hội, ăn mừng
Liên hệ Liên lạc (contact)
Linh tinh Vớ vẩn
Lính gái Nữ quân nhân
Lính thủy đánh bộ Thủy quân lục chiến
Lợi nhuận Lợi tức
Lược tóm Tóm lược
Lý giải Giải thích (explain)
Máy bay lên thẳng Trực thăng
Múa đôi Khiêu vũ
Mĩ Mỹ (Hoa kỳ,USA)
Nắm bắt Nắm vững
Nâng cấp Nâng, hoặc đưa giá trị lên
Năng nổ Siêng năng, tháo vát
Nghệ nhân Thợ, nghệ sĩ
Nghệ danh Tên (nghệ sĩstage name) dùng ngoài tên thật
Nghĩa vụ quân sự Đi quân dịch
Nghiêm túc Nghiêm chỉnh
Nghiệp dư Đi làm thêm (2nd job / nghề phụ, nghề tay trái)
Nhà khách Khách sạn
Nhất trí Đồng lòng, đồng ý
Nhất quán Luôn luôn, trước sau như một
Người nước ngoài Ngoại kiều
Nỗi niềm (tĩnh từ!) Vẻ suy tư
Phần cứng Cương liệu
Phần mềm Nhu liệu
Phản ánh Phản ảnh
Phản hồi Trả lời, hồi âm
Phát sóng Phát thanh
Phó Tiến Sĩ Cao Học
Phi khẩu Phi trường, phi cảng
Phi vụ Một vụ trao đổi thương mại (a business dealthương vụ)
Phục hồi nhân phẩm Hoàn lương
Phương án Kế hoạch
Những sai lầm trong cách diễn giải VNCH theo bảng trên:
-Bác sỹ=Bác sĩ: miền nam VN trước năm 1975 chỉ dùng y dài chứ không dùng i như người miền bắc, vì thế câu này đã đặt ngược chỗ.
-Báo cáo=thưa, trình, nói, kể: sai hoàn toàn vì báo cáo dành cho các cơ quan, đơn vị, công ty, không ai nói thưa, trình, nói kể trong lĩnh vực việc làm, thưa cái gì, trình cái gì, nói cái gì và kể cái gì có thể hơn báo cáo bằng miệng hay văn bản.
-Bài nói=diễn văn: hai cái khác nhau, bài nói có thể nói ở tổ dân phố, ở phường , khóm, hội đoàn còn diễn văn trang trọng hơn dành cho các lãnh đạo hay nguyên thủ, không ai nói rằng tổ trưởng tổ dân phố hôm nay có bài diễn văn hoặc ngược lại không ai nói rằng Tổng Thống G. Bush có bài nói chuyện.
-Mũ bảo hiểm=Mũ an toàn: nghe hơi ngố vì không ai dùng chữ an toàn cho cái mũ, đội để làm gì? Để bảo vệ cái não thì nếu dùng đúng sẽ phải gọi là mũ bảo vệ.
-Bất ngờ=ngạc nhiên: sai be bét vì bất ngờ chỉ việc diễn ra một cách bất thình lình còn ngạc nhiên chưa hẳn lúc nào cũng phải bất ngờ.
-Căn hộ=căn nhà: (?) hộ khác với nhà, tại Việt Nam căn hộ dùng để chỉ các phòng tập thể, các nhà chung cư còn nhà biệt lập, nhà phố cũng được gọi là căn nhà, cũng như tại Mỹ có apartment, house…
-Chất xám=trí tuệ, sự thông minh: cộng sản dùng chữ chất xám để nói cái cao hơn trí tuệ, sự thông minh, cái họ nói đó là đội ngũ trí thức, những nhân tài ví dụ “nạn chảy máu chất xám” có ý nghĩa là những nhân tài của đất nước đã đội nón ra đi chứ không nói là trí tuệ, sự thông minh đã bỏ nước ra đi.
-Chuyên chở=nói lên, nêu ra: (?!) chuyên chở thì chở cái gì còn diễn giải là nói lên, nêu ra thì nói lên, nêu ra cái gì? Sai về cách diễn giải.
-Đội ngũ=hàng ngũ: hai chữ gần giống nhau nhưng khác nhau về ý nghĩa, đội ngũ chỉ được dùng như: “Đội ngũ nghiêm chỉnh đứng chào cờ” chứ không ai nói hàng ngũ cả, hàng ngũ chỉ có thể dùng cho những câu trong lễ duyệt binh như” hàng ngũ binh sỹ nghiêm trang lướt qua khán đài…”
-Đồng bào dân tộc=Đồng bào sắc tộc: dân tộc bao gồm các sắc dân đang sống tại Việt Nam còn sắc tộc chỉ ra cụ thể sắc dân của họ ví dụ như người Ê Đê, Bana, Tày, Nùng, Giao…
-Động thái=động lực: sai hoàn toàn, động thái chỉ hành vi có thể thấy, động lực chỉ hành vi không thể thấy, ví dụ:” Động lực làm giàu của anh ta thật đơn giản” không ai dùng động thái làm giàu hoặc: ” động thái của anh ta thật hung dữ…”.
-Đường cao tốc=xa lộ: sai, vì cao tốc là đường phải chạy theo tốc độ bắt buộc tương đương với freeway tại Mỹ còn xa lộ tuy có thiết kế gần giống đường cao tốc nhưng tốc độ không bắt buộc.
-Giải phóng mặt bằng=ủi cho đất bằng: (!?) không hiểu đầu óc của dịch giả này có bình thường không hay ở nhà thương điên mới ra, giải phóng mặt bằng là lấy lại mặt bằng từ các lề đường, phố chợ, khu dân cư còn ủi cho đất bằng phải gọi là “san lấp mặt bằng”.
-Hạch toán=kế toán: sai nghiêm trọng- hạch toán là tính toán, thống kê, kiểm kê số liệu trước hoặc sau một kế hoạch, công trình nhằm cho ra kết quả cụ thể còn kế toán là một nghề nghiệp của những người thống kê các con số tại Việt Nam.
-Huyện=Quận: hai cái khác nhau, huyện chỉ một đơn vị vùng làng quê, một vùng đất diện tích nhỏ còn quận to hơn, cả hai đều đang được sử dụng ví dụ quận 1,2,3 Tân Phú, Bình Tân, huyện Củ chi, Bình Chánh…
-Liên hệ=liên lạc: khác nhau, liên hệ chỉ ra những mối liên quan cụ thể ví dụ: “Công ty X liên hệ Sở…để xin giấy phép hoạt động…” còn liên lạc chỉ về sự giao tiếp qua thư từ, điện thoại, báo chí…
-Lợi nhuận=lợi tức: khác nhau-lợi nhuận có thể nhìn thấy cụ thể còn lợi tức tuy cũng giống như thế nhưng ở mức cao hơn ví dụ: “lợi nhuận của cửa hàng là….” Còn lợi tức thì được dùng như: “lợi tức từ công ty hay tài khoản tiết kiệm là….”
-Nhà khách=khách sạn: sai nghiêm trọng, nhà khách là nhà dành cho khách đến làm việc, tham quan nghĩ ngơi do các công ty, cơ quan cs xây dựng còn khách sạn là nơi kinh doanh thuần túy dành cho bất cứ ai muốn mướn.
Trên là những từ dịch nghĩa sai của dịch giả nào cho rằng mình dùng ngôn ngữ VNCH tuy nhiên sai lầm đó không nghiêm trọng bằng vấn đề đặt ra dưới đây:
Rất nhiều chữ của VNCH dùng xuất phát từ Hán-Việt!
Điển hình: Túc cầu-Radio (Tiếng Anh)-vũ cầu-cứu hỏa-phi cảng, hải cảng-ghi danh-phi đạo-Hội Hồng Thập Tự-Ngũ Giác Đài, Tòa Bạch Ốc-Thủy quân lục chiến-trực thăng-khiêu vũ-cương liệu, nhu liệu.
Những từ cộng sản dịch đúng thuần chất tiếng Việt:
-đá banh-cầu lông-chữa cháy-sân bay-bến tàu-đường băng-Lầu Năm Góc-Nhà Trắng-Lính thủy đánh bộ-múa đôi-phần cứng-phần mềm.
Và người Việt trước năm 1975 tại hải ngoại vẫn tiếp tục dùng những chữ vay mượn như: Hội Ái Hữu (hội bạn bè thân)-hỏa tiển (tên lửa)-ghi danh (điền tên)-phi cơ (máy bay) đệ nhất, nhị, tam, tứ, lục, chu niên…những từ mà họ đã dùng trước năm 1975.
Điều này nói lên những kẻ được gọi là nhà ngôn ngữ học, tiến sỹ, nhà bảo tồn văn hóa Việt hải ngoại chỉ là những kẻ tào lao, đầu óc được mặc định sẵn và nếu thay đổi thì họ bị dị ứng la toáng lên, chụp mũ người nào không đồng ý với mình là cộng sản, họ cũng không khác gì bọn cộng sản khi cố tình không nhận ra mình đang dùng một loại ngôn ngữ được dịch ra từ ngôn ngữ của bọn kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam. Họ chỉ là những con lừa bị bịt mắt và mò mẫm trong cái hố sâu của mình tự tạo ra.
Họ cố tình áp đặt luồng tư duy cũ mèm của mình trong thế kỷ 20 trong khi ngày nay là năm thứ 18 của thế kỷ 21, thế giới chuyển động từng ngày và ngôn ngữ cũng không ngoại lệ, tiếng Việt được người dân sử dụng hàng ngày và loại bỏ, chế biến theo nhu cầu giao thiệp ví dụ miền bắc có chữ “vãi lọ” nói lên sự quá sức tưởng tượng thì ngày nay đã được thế bằng chữ “vãi luyện” khi tên Lê văn Luyện-một sát thủ giết người hàng loạt khi còn ở lứa tuổi thiếu niên và vãi luyện đã trở thành chữ phổ thông trong nước ai cũng hiểu, ngoài ra theo dòng thời gian người dân còn sáng chế hay cắt xén để tạo ra những chữ khác như: bùng (trốn), chập (nói về quan hệ), xử (chém, giết, đánh), cực (cực kỳ)…
Tất cả đều là kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam chỉ có điều chúng ta cảm thấy bị dị ứng khi nghe người miền bắc nói chuyện ví dụ:”bác tớ cực giàu” hay cực khoái, cực sướng…họ cố tình bỏ chữ nhằm đơn giản hóa nhưng lại làm cho người nghe khó chịu, tuy nhiên với hơn 800 tờ báo tuyên truyền, hơn 65 đài truyền hình, hàng trăm đài phát thanh đều sử dụng thì mức độ tiêm nhiểm vào đầu óc rất…cực (!) cao.
Vấn đề chữ nghĩa Việt Nam bị méo mó dị dạng là do người dùng chứ con chữ không có tội, không có chữ nào là chữ của cộng sản và cũng không có chữ nào là của Cộng Hòa, tất cả đều được giáo sỹ Alexandre de Rhodes sáng tạo ra cho dân tộc Việt Nam dùng được gọi là chữ Quốc ngữ, chỉ có vấn đề là cách dùng của cộng sản thường sai và họ hay dùng những chữ có tính cách tuyên truyền như: quyết tâm, đoàn kết, nhất trí vv và vv…
Vì thế khi quy chụp những người nói những từ mà cộng sản hay dùng là cộng sản chỉ thể hiện tính hẹp hòi tự tôn của một số người, tác hại của nó không hề nhỏ khi ngăn cách, chia đôi giữa người Việt với người Việt, không tạo được sự đoàn kết cao để có thể lật đổ cộng sản, ngoài ra khi chỉ trích chữ cộng sản nhưng lại dùng những từ vay mượn của Hán Việt thì những người này chỉ là loại trí thức rởm, trí thức đầu ruồi.
Hãy nhìn tiếng Anh, ngôn ngữ chính của thế giới mà chúng ta đang sử dụng hàng ngày nó có thuần Anh không?
Hoàn toàn không!
Hoàn toàn không!
Tiếng Anh là sự lai tạp của nhiều ngôn ngữ Anh, Pháp, Thụy Điển, Đức… họ mở rộng ra để tiếp nhận nhiều luồng văn hóa khắp thế giới, chọn lọc được những tinh túy nhất để sau cùng trở thành tiếng nói chung của nhân loại còn tiếng Việt, chữ Quốc ngữ chỉ có ba miền nam-trung-bắc mà còn chia rẻ, chống phá, chụp mũ, vu khống thì có lẽ người Việt Nam là một dân tộc ích kỷ, hẹp hòi tất nhiên kết quả cuối cùng sẽ là mất nước, diệt vong, và sau 100 năm nữa sẽ không còn tồn tại chữ Quốc ngữ mà thay vào đó là tiếng Quan Thoại, Phổ Thông…
Để kết thúc bài viết này xin vào vấn đề danh xưng của người Việt hải ngoại khi có nhiều bài báo cho rằng mình là: “Người Việt Quốc Gia”!
Người Việt Quốc Gia là gì? Không ai biết thậm chí ngay kẻ tự hào cũng không thể lý giải một cách rạch ròi về danh xưng của mình?
Người Việt hải ngoại chỉ có những con người sau:
- Người Việt đào thoát cộng sản ra đi trước thời điểm 30/04/1975
- Người Việt tỵ nạn cộng sản rời Việt Nam bằng cách vượt biên.
- Người Việt không chấp nhận cộng sản ra đi bằng các diện tỵ nạn chính trị, diện HO của các cựu sỹ quan VNCH.
- Người Việt đi không vì lý do chính trị, chỉ đi đoàn tụ do gia đình bảo lãnh.
- Người Việt đi Mỹ theo diện kết hôn, đầu tư, rửa tiền, du học…
- Người Việt Cỏ Đuôi Chó rời Việt Nam vì đói quá nhưng sau khi cộng sản bố thí cho vài cục xương thừa là há miệng ra đớp như những con chó đói.
Không có cái được gọi là Người Việt Quốc Gia mà chỉ có những người Việt sinh ra, lớn lên hấp thụ nền giáo dục nhân bản và khai phóng của hệ thống giáo dục trong thời VNCH, những người đã từng phục vụ trong bộ máy chính quyền quân sự và dân sự của nước VNCH miền nam Việt Nam trước 1975, họ không bao giờ vỗ ngực xưng tên mình là Người Việt Quốc Gia mà họ chỉ nhận mình là những kẻ Vong Quốc, người tỵ nạn.
Vì thế cái danh dưng “Người Việt Quốc Gia” nó cũng rởm đời, hợm hĩnh kệch cởm như chủ nhân của nó-một loại thùng rỗng kêu to mà thôi.
Gửi ý kiến của bạn