Nhân cách Tướng Quân : THIẾU TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ

13 Tháng Tư 201510:23 CH(Xem: 21232)
NHÂN CÁCH TƯỚNG QUÂN : THIẾU TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ
HLTL

1frd
anhhung03_jpg_w180h257
Anh Hùng Dân Tộc
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
Tư Lệnh Quân Đoàn 2 
 
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sinh năm 1929 tại Hà Đông, Bắc Việt. Sau khi tốt nghiệp học khóa 8 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vào giữa năm 1953, ông đã tình nguyện phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù. Ngày 14 tháng 3/1954, trong tình hình chiến trường Điện Biên Phủ vô cùng sôi động, ở cấp bậc Trung Úy ông đã chỉ huy một đại đội của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, nhảy xuống Natasha, một vị trí sát phi đạo chính. Sau hơn một hơn tháng liên tục giao tranh với Việt Minh, ngày 16 tháng 4/1954, Trung Úy Phạm Văn Phú đã chỉ huy một thành phần của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù cùng với các đơn vị bạn phản công tái chiếm một cứ điểm trọng yếu. Sau trận phản công này, ông được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận khi vừa đúng 25 tuổi, và đến ngày 26 tháng 4/1954, được cử giữ chức Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Ngày 7/5/1954, Điện Biên Phủ thất thủ, ông bị địch quân bắt giam. Sau 20/7/1954 (Hiệp định Genève), ông được trao trả và tiếp tục phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Năm 1960, được tuyển chọn để phục vụ trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Cuối năm 1962, thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Quan Sát 77 Lực Lượng Đặc Biệt. Giữa tháng 5/1964, ông đã chỉ huy liên đoàn này đánh tan Trung Đoàn 765 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tại Suối Đá, Tây Ninh. Gần cuối năm 1964, ông được thăng Trung Tá và giữ chức tham mưu trưởng Lực Lượng Đặc biệt. Một năm sau, ông được thăng Đại Tá nhiệm chức.

Đầu năm 1966, không hiểu vì lý do gì, ông bị vị Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt trình Bộ Quốc Phòng thâu hồi cấp Đại Tá nhiệm chức và thuyên chuyển ra miền Trung, giữ chức Phụ Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, giữa năm 1966, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ Tư Lệnh Sư Đoàn này. (Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh là Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 1 Vùng 1 Chiến Thuật vào cuối tháng 5/1966). Cuối năm 1966, ông được điều động ra Sư Đoàn 1 Bộ Binh làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn. Giữa năm 1968, được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 (bao gồm các tỉnh biên giới ở miền Tây Nam phần). Năm 1969, được thăng cấp Chuẩn Tướng tại mặt trận. Đầu năm 1970, chuẩn Tướng Phú được cử thay thế Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng trong chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc biệt.

Gần cuối tháng 8/1970, Tướng Phú được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thay thế Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4. Tháng 3/1971, ông được thăng Thiếu Tướng tại mặt trận sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào (ngoài Tướng Phú, có hai Đại Tá được thăng cấp chuẩn tướng: Đại Tá Vũ Văn Giai -- Tư Lệnh phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Đại Tá Hồ Trung Hậu -- Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhảy Dù). Trong cuộc chiến mùa Hè 1972, ông đã điều động, phối trí các trung đoàn của Sư Đoàn 1 Bộ Binh giữ vững phòng tuyến Tây Nam Huế. Do điều kiện sức khỏe, đến tháng 9/1972, ông bàn giao Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho Đại Tá Điềm, Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ. Từ 1973 đến tháng 10/1974, ông giữ chức chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn luyện Quang Trung. Tháng 11/1974, thể theo đề nghị của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc lệnh cử ông giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn. (Tướng Toàn trở lại binh chủng Thiết giáp, giữ chức chỉ huy trưởng).

Nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 không phải do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lựa chọn, hoặc do Đại Tướng Cao Văn Viên -- Tổng tham mưu trưởng -- đề nghị, nên Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã gặp nhiều khó khăn trong việc sắp xếp nhân sự cao cấp phụ tá ông để điều hành bộ Tư Lệnh. Thông thường, các Tư Lệnh Quân Đoàn được quyền chọn lựa tham mưu trưởng, sau đó, bộ Tổng tham mưu sẽ ban hành quyết định hợp thức hóa, thế nhưng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã bị bộ Tổng tham mưu "hạn chế" các quyền hạn dành cho Tư Lệnh Quân Đoàn. Khi Tướng Phú nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn 2, vị tham mưu trưởng đương nhiệm là Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm. (Trong thời gian từ 1967 đến tháng 6/1968, khi Tướng Phú còn mang cấp Đại Tá và giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh thì tướng Cẩm còn là Trung Tá, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn này).

Trong những tuần lễ đầu tiên, Tướng Phú đã hai lần đề nghị hai vị Đại Tá giữ chức vụ tham mưu trưởng Quân Đoàn thay chuẩn tướng Cẩm được bổ nhiệm làm Phụ Tá Hành Quân Tư Lệnh Quân Đoàn 2, nhưng cả hai lần đều bị Trung Tướng Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng Liên quân trình với Đại Tướng Cao Văn Viên bác bỏ. Cuối cùng, theo đề nghị của Trung Tướng Khuyên, Đại Tướng Cao Văn Viên đã bổ nhiệm Đại Tá Lê Khắc Lý, nguyên tham mưu trưởng bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1 giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2. Dù vị tham mưu trưởng không do mình chọn lựa, nhưng Tướng Phú đã tin dùng và ủy nhiệm cho Đại Tá Lê Khắc Lý nhiều quyền hạn trong việc điều hành Bộ Tư Lệnh.

Trước khi cuộc chiến Cao Nguyên (năm 1975) bùng nổ, Tướng Phú được Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn trình bày về các khả năng Cộng quân sẽ mở cao điểm tại Ban Mê Thuột, thế nhưng không hiểu vì sao, Tướng Phú không tin và nhận định rằng Pleiku mới là chiến trường trọng điểm, còn Ban Mê Thuột là mặt trận phụ mà Cộng quân muốn tạo thế trận nghi binh. Trận chiến Ban Mê Thuột đã bùng nổ vào rạng sáng ngày 10 tháng 3/1975. Bốn ngày sau, vào trưa ngày 14 tháng 3/1975, trong một cuộc họp đặc biệt tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ Quân Đoàn 2 khỏi Cao nguyên.

Sau khi lực lượng Quân Đoàn 2 triệt thoái khỏi Nha Trang, 1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng 4/1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và vài sĩ quan thân tín đã bay đến ngọn đồi "Lầu Ông Hoàng" để chờ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu -- Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3 -- tới nhận bàn giao phần lãnh thổ cuối cùng của Quân Khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân Khu 3. Vào giờ phút đó, quanh Tướng Phú chỉ có: Đại Tá Đức --nguyên Phụ Tá Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đặc trách lực lượng diện địa; Thiếu Tá Vinh, chánh văn phòng; Thiếu Tá Hóa, sĩ quan tùy viên, và Thiếu Tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí. Chính tại đây, Tướng Phú đã có quyết định tự sát, nhưng Đại Tá Đức đã kịp thời cản ông. Theo lời kể của Thiếu Tá Phạm Huấn, vào lúc 2 giờ 12 phút cùng ngày, Thiếu Tá Hóa tới trình cho Tướng Phú là trực thăng của Tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi đó, Thiếu Tá Huấn đứng gần Tướng Phú, thấy đôi mắt Tướng Phú như muốn tóe lửa. Và sau khi Thiếu Tá Hóa quay gót, Tướng Phú vất điếu thuốc lá đang cầm trên tay xuống đất. Rất nhanh, ông rút khẩu súng ngắn nòng ra khỏi vỏ. Nhưng tiếng hét thất thanh của Đại Tá Đức: "Thiếu Tướng". Khẩu súng trên tay Tướng Phú bị gạt bắn xuống đất. Sự việc này xảy ra quá bất ngờ...

Giữa tháng 4/1975, Tướng Phú lâm bệnh, vào điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Ngày 15 tháng 4/1975, Đại Tá Phạm Văn Chung, cựu Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, nguyên tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Quảng Nam, đã vào thăm Tướng Trưởng và Tướng Phú đang nằm dưỡng bệnh. Chính trong lần thăm này, Đại Tá Chung đã nghe Tướng Phú trăn trối, và kể lại như sau:
Rời phòng Trung Tướng Trưởng, tôi (Đại Tá Chung) qua phòng kế bên cạnh là phòng của Thiếu Tướng Phú, cũng đang nằm dưỡng bệnh kế đó. Bước vào phòng tôi thấy Thiếu Tướng Phú đứng dậy ngay và bắt tay tôi bằng một giọng hằn học, tức tối:

"Anh Chung, anh từng hành quân với tôi đã lâu..."

Nói đến đây Thiếu Tướng Phú ôm tôi và khóc tiếp với giọng nghẹn ngào, tức tối:

"...mà đêm qua, Tổng Thống Thiệu lên đài nói chuyện và đổ tội cho các tướng lãnh là hèn nhát bỏ chạy. Anh cứ về hỏi Trung Tướng Trưởng xem, trong buổi họp hôm trước, có cả Trung Tướng của anh nữa đấy, tôi đã xin Tổng Thống cho tôi giữ Pleiku bằng mọi giá, Tổng Thống không chịu, bắt tôi phải rút... có cả Đại Tướng Viên và Đại Tướng Khiêm nghe nữa mà bây giờ Tổng Thống nói chuyện với toàn dân đổ tội cho chúng tôi, thật cái nhục này tôi không biết tỏ cùng ai, không biết đồng bào có hiểu không, chỉ có cách chết mới hết nhục".

Tôi (Đại Tá Chung) không khỏi ngậm ngùi thương xót chia xẻ nỗi oan ức của một vị đàn anh đáng kính như Thiếu Tướng Phú, nên tôi hết lời an ủi và khuyên Thiếu Tướng hãy bình tỉnh và nên tĩnh dưỡng.
Đó là lần cuối cùng Đại Tá Chung gặp Tướng Phú. Sáng ngày 29 tháng 4/1975, tại căn nhà riêng ở đường Gia Long, chờ khi vợ và các con rời nhà để đi về phía Trường Đua Phú Thọ tìm cách di tản, Tướng Phú đã uống một liều thuốc cực mạnh tự tử. Người em trai của bà Phú sau khi biết tin này đã chạy tới vào cho bà biết. Cả gia đình quay về. Theo lời kể của con trai Tướng Phú, đã vượt biên sang Mỹ, những giờ cuối của Tướng Phú được ghi nhận như sau: Nhờ có các bác sĩ Pháp gần nhà giúp đỡ, Tướng Phú được đưa vào bệnh viện Grall để cấp cứu. Nhưng Tướng Phú mê man liên miên, mãi đến trưa ngày 30/4/1975, ông mới tỉnh được giây lát và thều thào hỏi người vợ đang ngồi cạnh:

- Tình hình đến đâu rồi?

Bà Phú nói:

- Tướng Dương Văn Minh ra lệnh Quân đội bỏ súng đầu hàng, và Cộng sản đã vào tới Sài Gòn!

Nghe xong Tướng Phú nhắm mắt lại và "ra đi".

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phong Cách Anh Hùng
Nguyễn Đông Thành

Dù rằng có nhiệm vụ không thể thiếu sót là làm theo lệnh trên, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Khóa 8 Đà Lạt, Tư Lệnh Quân Đoàn II-Quân Khu 2, vẫn không chối được trách nhiệm về việc bỏ mất miền Tây Nguyên và do thế tạo ra điều kiện thuận lợi cho Cộng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa một cách mau chóng và dễ dàng hơn cả dự liệu lạc quan nhất của những người hoạch định chiến lược Bắc Việt. Đó là nhận định nhất trí của người Việt Nam tị nạn Cộng Sản ở nước ngoài, trong những năm đầu hạ bán thập niên 1970. Nhận định như thế quả là rất thuận lý vào hồi đó, tức là trong khi người ta chỉ biết rất mù mờ về phần đóng góp của Tướng Phú vào cuộc rút quân khỏi vùng Tây Nguyên, một cuộc hành binh đã được ghi nhận là thiếu kế hoạch, thiếu chuẩn bị và thiếu chỉ huy.

Nhưng rồi thì từng phần sự thật dần dần được phơi bày. Người ta chưa biết thật đầy đủ, thật chính xác, nhưng cũng đã biết rõ được vài ba sự việc có thể chứng minh rằng Tướng Phú trên thực tế không có trách nhiệm gì hết trong cuộc rút quân khởi sự ngày 13-3-1975. Cuộc rút quân ấy do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quyết định với tư cách và quyền hạn của vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH. Tổng Thống Thiệu đã đích thân ra Nha Trang gặp Tướng Phú, mang theo Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, để đích thân truyền đạt lệnh rút quân.

Với tư cách là tư lệnh một Quân Đoàn trong QLVNCH, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú dĩ nhiên không được phép chống lại mệnh lệnh của vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội. Nhưng Tướng Phú cũng không tuân hành: hoặc là vì chính ông từ khước; hoặc vì Tổng Thống Thiệu, Đại Tướng Viên ngại rằng Tướng Phú sẽ không ngoan ngoãn vâng lời. Người đứng ra thi hành lệnh rút quân khỏi vùng Tây Nguyên là một Đại Tá mới được thăng cấp Chuẩn Tướng, Đại Tá BĐQ Phạm Duy Tất, để lãnh chức Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, và tướng Tư Lệnh được đặt trong tình trạng bất khiển dụng vì lý do sức khỏe từ ngày 14-3-75 đến ngày bị Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng mới nhậm chức, bắt giam vì tội bỏ mất vùng Tây Nguyên.

Như vậy khi cuộc rút quân khỏi miền Tây Nguyên được thực hiện theo lệnh thượng cấp, Tướng Phú trên thực tế chẳng còn là Tư Lệnh Quân Đoàn II-Quân Khu 2, nên không có trách nhiệm về cuộc hành binh tự sát mà ông tuyệt đối không tham dự vào bất cứ một giai đoạn nào từ quyết định, thiết kế, đến việc chuẩn bị và thực hiện. Tuy nhiên dù không dự phần trách nhiệm trong việc bỏ mất vào tay địch một phần lãnh thổ Quốc Gia, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú vẫn khẳng khái tự xử khi thấy rõ là đại cuộc đã không còn cách nào cứu vãn nữa vì Đại Tướng Dương Văn Minh đã dùng quyền Tổng Tư Lệnh mà bắt toàn quân phải buông súng, nộp mình cho Cộng Sản.

Người anh hùng thất bại Phạm Văn Phú tự sát chẳng phải là vì sợ Cộng Sản bắt được và hành hạ trả thù. Nếu muốn, Tướng Phú cũng có đủ khả năng để đào thoát ra nước ngoài một cách ung dung như một số đông các vị cựu tướng lãnh khác, chứ không đến nỗi phải chịu nhục trong Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ như một số người khác, hay phải đạp lên đầu đồng bào mà tranh lấy một chỗ ngồi trên chiếc trực thăng đáp trên một mái nhà như ông Tổng Trưởng Quốc Phòng, kẻ mới tuần trước còn tống giam ông vì tội “không dám hy sinh chiến đấu và bỏ chạy trước quân địch!”

Việc Tướng Phú đến cơ quan DAO gặp Tướng Smith để chỉ xin độc một chỗ trong một chuyến bay di tản cho một người con ông, tác giả cuốn sách “Decent Interval” không khen các tướng lãnh khác là thức thời và cũng không chê Tướng Phú là gàn dở. Ông chỉ viết thêm một câu ngắn, đại ý là Tướng Phú tự sát ngay sau khi Cộng Sản tràn vào Sài Gòn và thở hơi cuối cùng ở Bệnh Viện Grall. Nhưng một tấm hình in trong tập ảnh kẹp giữa cuốn sách “Decent Interval” lại nói hộ ông Frank Snepp những điều ông không cần viết ra mà vẫn nói lên được về tiết tháo và tinh thần trách nhiệm của một tướng lãnh đã quyết tâm tự sát để được chết với lương tâm thanh thản chứ không đành chạy thoát thân khi đất nước lâm nguy. Đó là bức ảnh kỷ niệm mà Tướng Smith lúc đó phụ trách về việc xếp hạng ưu tiên cho những người được coi là có liên hệ với Hoa Kỳ cùng với việc ấn định giờ giấc của các phi vụ di tản. Ông ta bận đến mức không có thì giờ đi ăn, nên sự kiện Tướng Smith bỏ ra vài chục phút để tiếp chuyện và chụp ảnh lưu niệm với Tướng Phú, chứng tỏ hai người có sự tương kính lắm. Nếu cũng tham sống sợ chết, Tướng Phú có thể xin người bạn thân của mình dành nhiều chỗ cho gia đình ông ung dung ra đi.

Nhưng người anh hùng thất bại Phạm Văn Phú còn đủ liêm sỉ để không đành cúi mặt sống hèn; ông chỉ hỏi xin Tướng Smith một chỗ duy nhất cho cậu con trai của ông, ý hẳn là để giữ cho họ Phạm còn có người nối dõi. Hành động tự giết mình để chết theo Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử đã được quyết định từ lúc ông đến gặp Tướng Smith để ký thác đứa con côi, chứ không phải là một việc liều lĩnh chỉ được nghĩ tới khi chiến xa Cộng Sản đang hùng hục tiến về phía Dinh Độc Lập.

Trước Frank Snepp hơn 20 năm, hai tác giả người Pháp cũng có dịp tán thưởng phong cách anh hùng của một sĩ quan nhảy dù tên Phạm Văn Phú, một nhân vật mà lẽ ra họ không lưu ý tới, vì đã chỉ mới được đề bạt giữ một chức vụ khiêm nhường là Tiểu Đoàn Phó lại là sĩ quan người bản xứ của một quân đội mới thành hình. Một trong hai tác giả đó là Đại Tá Pierre Langlais, một sĩ quan Pháp đã tự thú là có thành kiến xấu với quân nhân Việt Nam.

Cho đến ngày Trung Úy Phạm Văn Phú theo đơn vị, TĐ5ND, nhảy xuống tiếp viện lực lượng G.O.N.O. trong vùng lòng chảo Điện Biên Phủ, Trung Tá Langlais còn giữ nguyên vẹn cái thành kiến xấu xa của ông ta. Langlais lại có ấn tượng xấu đặc biệt về TĐ5ND, đơn vị mà chính ông ta đã đề nghị trả về Lực Lượng Tổng Trừ Bị hồi cuối năm trước. Langlais có chép lại đầu đuôi vụ ấy trong quyển “Điện Biên Phủ” do nhà xuất bản France-Empire phát hành năm 1963. Cũng trong tập ký sự đó, Langlais còn nhìn nhận rằng ông đánh giá lính Việt Nam thấp. Nhưng cũng trong tập ký sự Điện Biên Phủ về sau, Langlais lại dành hơn 10 đoạn để nói về TĐ5ND, đặc biệt về viên sĩ quan cấp úy tên Phạm Văn Phú, người đã chỉ huy giỏi giang và chiến đấu dũng liệt đến mức làm cho Langlais phải từ bỏ các thành kiến sai lầm của mình về tinh thần chiến đấu của chiến sĩ Việt Nam trên trận tuyến chống Cộng. Đại Tá Langlais viết đến người về sau trở thành vị Tư Lệnh cuối cùng của Quân Đoàn II-Quân Khu 2 của Việt Nam Cọng Hòa:

“Ngày 2-3-1954, khi tình hình Điện Biên Phủ đã nguy ngập tới mức René Pleven, Bộ Trưởng Bộ Quân Lực Pháp, vừa từ Điện Biên Phủ trở về, đã phải ra trước Hội Đồng Liên Bộ, để đề nghị một loạt biện pháp cấp cứu. Tướng Navarre ra lệnh thành lập Liên Đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam, Tiểu Đoàn 2/1 Kỵ Binh Nhảy Dù, và TĐ6ND mà Thiếu Tá Begeard, Tiểu Đoàn Trưởng, là một đơn vị trưởng nổi tiếng từ những năm kháng chiến ở vùng Đức chiếm đóng. TĐ5ND nhảy xuống Điện Biên Phủ trước tiên, vào buổi chiều ngày 24-3-1954. Nhảy ở độ thấp, dưới mưa đạn súng cối và đại bác 105 ly. Địch bắn dữ dội đến mức phải thay đổi bãi nhảy mấy lần.

Trung Tá Langlais là Tư Lệnh Phó Lực Lượng G.O.N.O. nhưng nắm toàn quyền trên thực tế, vì Đại Tá De Castries chỉ làm một việc độc nhất là ký và chuyển đi những gì được Langlais đưa cho. Langlais vốn có thành kiến với các quân nhân người Việt, nhất là với TĐ5ND nên ông đã dự tính là xé lẽ ra để bổ sung chỗ này chỗ nọ, chứ không xử dụng nguyên cả tiểu đoàn như một lực lượng xung kích.

Ngay mấy giờ sau khi nhảy xuống, một đại đội của TĐ5ND đã bị biệt phái cho một đơn vị Lê Dương để tiếp cứu lực lượng trấn giữ ở cứ điểm Gabrielle; cuộc hành quân không đạt được kết quả nên Langlais càng nghi ngờ khả năng và tinh thần chiến đấu của lực lượng vừa gởi tới tăng viện. Nhưng Langlais đã bắt đầu nhìn TĐ5ND với con mắt khác hẳn ngay vài hôm sau. Cùng với TĐ6ND của Thiếu Tá Begeard, TĐ5ND được giao cho trấn giữ đồi Eliane 4 ở phòng tuyến thứ 2, nhiệm vụ vừa nặng nề vừa nguy hiểm, là tự chôn mình dưới hỏa lực địch. Cả hai tiểu đoàn đóng gần đỉnh đồi, TĐ6ND giữ mặt Tây, TĐ5ND giữ hai mặt Đông và Nam. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn có thể bị bắn trực xạ bất kể ngày đêm bởi các xạ thủ địch rình rập thường trực ở phía đối diện. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng tình nguyện trấn giữ vị trí nguy hiểm đó, chiến sĩ tiểu đoàn đào đắp xong công sự và địa đạo giao thông hào trong thời gian kỷ lục; Langlais bắt đầu nghĩ khác về khả năng và tinh thần phục vụ của những quân nhân Việt Nam, đang ép lòng chấp nhận quyền chỉ huy của người Pháp trong giai đoạn chuyển tiếp.

Hồi ấy, Trung Úy Phạm Văn Phú là sĩ quan người Việt Nam độc nhất nắm đại đội trong TĐ5ND và cũng là đại đội trưởng độc nhất mang cấp bậc Trung Úy. Hai đại đội trưởng khác là Đại Úy Armandi và Rouault. Ngày 24-3-54, TĐ5ND được tăng phái thêm Đại Úy Alian Bizard, sĩ quan Tùy Viên của một tướng ở Sài Gòn xung phong ra mặt trận. Do ở thâm niên cấp bậc, ông được cử làm Tiểu Đoàn Phó chịu trách nhiệm trấn giữ hai cứ điểm H6 và H7. Đại Úy Bizard mang theo mấy trung đội lấy từ Đại Đội 1 và 4; trong khi ấy Đại Đội 3 được biệt phái cho cứ điểm Dominique, Eliane và Isabelle. Lính Bắc Phi ở Dominique 1 bị tràn ngập, Đại Đội 3 của TĐ5ND tăng phái chỉ còn 10 người chạy về tới tiểu đoàn bộ.

Tình hình hồi ấy tuyệt vọng đến mức Navarre và Cogny chỉ còn độc một việc là đổ lỗi lên đầu nhau. Langlais luôn miệng réo hết Bruno (ám hiệu của Begeard) đến Dédé (Botella) để động viên tinh thần họ giữ vững đồi Eliane 4 vì để mất cứ điểm ấy là đại bản doanh của De Castries cũng mất luôn. Tuy rằng phải chia xẻ với TĐ6ND của Begeard cái nhiệm vụ tử thủ đó, TĐ5ND, đã mất đi Đại Đội 3, chỉ còn sử dụng được non phân nửa quân số còn lại. Langlais giải nhiệm cho Bizard chức Tiểu Đoàn Phó hư hàm để ông ta mang Đại Đội 1 đi trấn giữ cứ điểm H6, trong khi Trung Úy Phú được tôn vinh bằng một trọng trách không tương xứng với một đại đội là trấn giữ điểm tựa Opéra vừa thiết lập để chận địch trong khoảng giữa các cứ điểm Hugette 1 và Épevier.

Trong thượng tuần tháng 4-1954, tình hình ngày càng tồi tệ hơn. Ngày 14-4-1954, Langlais báo cáo là chỉ còn 3,000 quân khiển dụng vì ông không thèm tính tới các phần tử đã mất hết tinh thần chiến đấu. Ở đoạn này trong sách Điện Biên Phủ, tác giả nhấn mạnh rằng lực lượng đóng cứ điểm Eliane 4 (TĐ6ND và TĐ5ND) vẫn giữ vững tinh thần, và họ nhất quyết sống chết với nhiệm vụ.

Hôm sau, Đại Tá De Castries được thăng Thiếu Tướng, hai Trung Tá Langlais và Ladande cũng được thăng một cấp, cũng như mười sĩ quan khác trong đó có Trung Úy Phạm Văn Phú.

Ngày 19-5-1954, Đại Úy Phú được thay thế bởi Đại Úy Bizard, ông này được lệnh rút khỏi cứ điểm H6 đêm hôm trước. Đại Đội 1 gồm 200 chỉ còn lại 80 người đứng vững để tới điểm tựa Opéra thay thế Đại Đội 2, rồi Đại Úy Phú được đề bạt lên chức Tiểu Đoàn Phó ngày 26/4.

Vào thời điểm ấy, tình hình ở Điện Biên Phủ rõ ràng là vô phương cứu chữa. Sau gần một tháng thí quân không tính đếm, 3 trung đoàn địch đã phá hủy được toàn bộ phi đạo; giải quyết xong 3 điểm tựa trong đó có điểm tựa Opéra mà Đại Úy Phú đã giao lại cho Đại Úy Bizard 5 ngày trước.

TĐ5ND chỉ còn ngót hơn 200 chiến sĩ vì ngoài Đại Đội 2 không toàn vẹn, Bộ Chỉ Huy chỉ sử dụng vài chục người còn sót lại của 3 đại đội đã tan vỡ. Quân số đã hao hụt quá nửa nhưng lại phụ trách nhiệm vụ nặng nề gấp bội là một mình trấn giữ tuyến đầu, án ngữ phía trước cho TĐ6ND (Tiểu Đoàn Trưởng mới là Thiếu Tá Béchignac) giữ liên lạc với Bộ Chỉ Huy Trung Ương. Để làm cái việc không thể làm nổi là ngăn chặn không cho địch quân đông gấp mấy chục lần vượt sông xâm nhập vào trung tâm, ngót 200 chiến sĩ TĐ5ND chỉ được tăng cường bằng mấy chục chiến sĩ còn lại của Tiểu Đoàn 2/1 Kỵ Binh Nhảy Dù do Đại Úy Guillemint chỉ huy. Nhưng lực lượng tử thủ ấy vẫn làm tròn được nhiệm vụ cho tới sáng sớm ngày 7-5-54. Mấy giờ trước đó, hai đại đội lính Lê Dương gởi đến tiếp viện cho TĐ5ND, nhưng họ phải mất 3 giờ mới đến được Bộ Chỉ Huy của Thiếu Tá Botella, và chỉ còn không quá 20 chiến sĩ.

Đến hừng sáng, Đại Úy Phú mở cuộc phản kích với ngót 100 tàn quân của mấy đơn vị hợp lại, đánh cận chiến ở thế 1 chọi 20, nhưng cũng dành lại được hơn 100 thước địa đạo. Nhưng rồi thì mũi xung phá ấy bị bẻ gãy, nhiều chiến sĩ và 3 sĩ quan (Đại Úy Guillemint, Đại Úy Phú, Thiếu Úy Lafanne) lần lượt bị đạn địch quật ngã. Thiếu Úy Mackowak, sĩ quan độc nhất còn đứng vững cùng mấy chục chiến sĩ TĐ5ND tiếp tục tử chiến trong khúc địa đạo dưới sườn đồi phía Đông Nam. Địch chùn bước vì mức thương vong quá cao; nhưng mấy chục phút sau, trận đánh dứt điểm tiếp diễn, lần này địch quân sử dụng loại súng cối có nhiều nòng và bắn tự động hàng loạt đạn, loại vũ khí mới lần đầu tiên xử dụng trên chiến trường Việt Nam, và căn cứ chỉ huy của TĐ5ND thất thủ lúc 9 giờ sáng ngày 7-5-54.”

Trên đây là tóm lược các đoạn nói về TĐ5ND và về Đại Úy Phạm Văn Phú trong cuốn Điện Biên Phủ của Đại Tá Pierre Langlais, người thực sự chỉ huy lực lượng G.O.N.O. ở Điện Biên Phủ trong thời gian tiểu đoàn này tham chiến tại mặt trận đó. Đại Tá Langlais đã đích thân ra lệnh, đã chính mắt nhìn thấy, hay đã được báo cáo tường tận tại chỗ, nên chắc chắn là biết rất đúng sự thật. Viên đại tá Pháp đó, từng mang nặng thành kiến không tốt với các chiến hữu Việt Nam, nên chắc chắn không cố ý nói sai để ca tụng chiến sĩ Việt Nam trong TĐ5ND Việt Nam nói chung và viên Đại Úy anh hùng Phạm Văn Phú nói riêng. Vả chăng, tác giả tập hồi ký Điện Biên Phủ cũng chỉ thuật lại các sự việc, như tác giả quyển Decent Interval về sau, chứ không trực tiếp khen chê gì nhân vật Phạm Văn Phú.

Cũng như Đại Tá Pierre Langlais, người viết quyển “La Bataille de Dien Bien Phu” (xuất bản ở Paris cuối năm 1963) cũng là một sĩ quan cao cấp, cũng từng tham chiến ở mặt trận đó từ đầu đến cuối. Ông Jules, về sau được phép trở lại Bắc Việt thu thập tài liệu để kiện toàn pho sách của ông (gọi là pho vì dày đến 624 trang), bị nghi ngờ là có thiện cảm với phe thắng trận ở Điện Biên Phủ. Sự nghi ngờ đó không phải là vu vơ, quả thật tác giả “La Bataille de Dien Bien Phu” đã đưa ra khá nhiều hình ảnh và luận điệu có lợi cho phe địch. Tuy nhiên trong các đoạn rải rác trên mấy chục trang nói về diễn tiến mấy trận đánh từ sau ngày các cứ điểm Béatrice 1, 2 và 3 thất thủ (đêm 13/3/54), Jules Roy cũng ghi nhận tương tự như Pierre Langlais (khá chi tiết hơn vì viết dài hơn) về các chiến tích của TĐ5ND/VN và nhất là về phong cách anh hùng của Tiểu Đoàn Phó Phạm Văn Phú. Về trận đánh dứt điểm đêm mùng 6 rạng mùng 7/5/54 nhằm vào cứ điểm Eliane 4, Jules Roy bổ túc thêm các chi tiết dưới đây:

“Xế chiều ngày 6, địch pháo kích kịch liệt cứ điểm Eliane 4. Áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung, đến 18 giờ 30, địch mới tấn kích, lực lượng Cộng Quân là Trung Đoàn 98. Bộ Chỉ Huy TĐ5ND chỉ còn xử dụng được không đầy 200 chiến sĩ đã mệt nhừ sau một tuần lễ chiến đấu, đạn dược đã gần cạn mà xin tiếp tế không được. Thiếu Tá Botella ra lệnh cho chiến sĩ kháng cự bằng súng cối và súng không giật, nhưng xạ thủ phải tiết kiệm từng viên đạn một, nên địch quân vẫn tiến được lại gần. Trong thế ưu thắng rõ rệt, Trung Đoàn 98 vẫn phải dè dặt tối đa; đây là lần đầu tiên họ xử dụng đường điện thoại vô tuyến nối liền các đại đội với chỉ huy sở Trung Đoàn.

Chiến sĩ TĐ5ND chiến đấu cực kỳ dũng liệt, đến 21 giờ, Đại Úy Phú chỉ còn 30 người để chỉ huy. Họ bắn đến nòng súng nóng bỏng và địch tràn vào như thác nhưng chẳng ai chùn lại. Họ tử chiến để giành giựt với địch từng đoạn địa đạo; lấy súng của người đã chết để bắn về phía những tên đội nón cối đan bằng nan tre. Một loạt đạn súng cối liên châu nã vào, đất bị cày tung lên và đổ ập xuống ông Tiểu Đoàn Phó vừa bị đốn ngã.

Trên đỉnh đồi vừa rạng sáng, trận cận chiến vẫn tiếp diễn trong ruột đồi Eliane 4. Quân địch tràn ngập khắp nơi, nhưng phép lạ là cứ điểm Eliane 4 vẫn còn cầm cự. Theo lệnh Đại Tá Langlais, Trung Tá Lemeunier, Tư Lệnh Bán Lữ Đoàn Lê Dương số 13, đi tiếp cứu Eliane 4, nhưng không kịp. Vì trong căn hầm chỉ huy đầy nhóc thương binh, Thiếu Tá Béchignac không đồng ý xin bắn vào đầu mình và hơn 10 người còn vững tay súng bị bắt làm tù binh lúc 9 giờ sáng.”

Tác giả “La Bataille de Dien Bien Phu” bị nghi ngờ là có thiện cảm với phe thắng trận ở Điện Biên Phủ. Tác giả hồi ký “Dien Bien Phu” xác nhận vốn có thành kiến xấu với các quân nhân người Việt Nam nói chung và TĐ5ND nói riêng. Nhưng cả hai tác giả đều không thể không ghi nhận phong cách anh hùng của nhân vật Phạm Văn Phú, hồi ấy còn là một sĩ quan cấp úy, tức là cấp nhỏ hơn họ nhiều. Một chiến sĩ có phong cách anh hùng như thế, từ thuở mới bắt đầu binh nghiệp, tất nhiên không thể chà đạp lên tiết tháo và tinh thần trách nhiệm của một tướng lãnh mà cúi mặt ở nước người khi quân tan, nước mất. Việc thất bại, anh hùng Phạm Văn Phú tự sát, để được chết với lương tâm thanh thản chỉ là việc tất nhiên phải có của một tướng lãnh.

 nguồn:http://hoilatraloi.blogspot.com/2011/04/thieu-tuong-pham-van-phu-vi-anh-hung.html


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27 Tháng Mười Hai 20236:46 CH(Xem: 3546)
một phái đoàn của nhà cầm quyền cs huyện Chợ Mới do Trung Tá Trung, trưởng ca xã Long Giang dẫn đầu gồm 12 người đã đến trụ sở tạm thời của Ban Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Hoà Hảo Thuần Tuý gặp bà tám Hiền (vợ của ông Nguyễn Văn Vinh chủ nhà, đã mất) và con út là Út Lẹ để cho biết quyết định của nhà cầm quyền là nam nay dứt khoát không cho tổ chức Đại Lễ Đản Sanh của Đức Huỳnh Giáo Chủ tại địa điểm này, không cho treo cờ,băng rôn, dựng lễ đài và cấm người lạ đến. Chú Lẹ nói phần đất này trước đây do cha tôi hiến tặng cho Giáo Hội để làm lễ, nếu mấy ông muốn cấm thì cho tôi văn bản để tôi trình cho Giáo Hội...
17 Tháng Mười Hai 202312:29 SA(Xem: 3432)
Ông nói, các vị không cần đọc lại báo cáo, chúng tôi đã đọc rồi; các vị nhắc rất nhiều đến Hiến pháp, đến luật này luật nọ, nhưng không cho thấy các điều luật đó được áp dụng như thế nào; đây cũng không phải là lần đầu tiên nhà nước Việt Nam bị rà soát về vấn đề nhân quyền, và họ chẳng nói được gì mới. Ông cũng nói điều luật trừng phạt những hành vi “phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc” là mâu thuẫn và có vấn đề, tạo chỗ để trừng phạt bất kỳ ai khiếu nại là họ bị kỳ thị.
15 Tháng Mười Hai 20239:43 CH(Xem: 1841)
“Bộ Ngoại giao Đài Loan nhắc lại rằng Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) là một quốc gia độc lập, có chủ quyền và cả Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) lẫn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) đều không phụ thuộc vào nhau. Đây là sự thật được quốc tế công nhận và là hiện trạng. Những câu chuyện xuyên tạc về tình trạng chủ quyền của Đài Loan không thể thay đổi sự thật hay làm thay đổi hiện trạng này”, tuyên bố của Bộ Ngoại giao Đài Loan nói.
07 Tháng Mười Hai 20238:12 CH(Xem: 2307)
Ông Thể, 60 tuổi, bị bắt vào ngày 22/2 năm nay bị toà án tuyên có tội trong khi ông từ chối quyền có luật sư bào chữa vì cho rằng bản thân hoàn toàn vô tội. Cô Lê Thị Nghĩa Tình, con gái của ông Lê Minh Thể cho Đài Á Châu Tự Do (RFA) biết gia đình được thông báo về phiên toà vài ngày trước phiên xử. Cô nói trong tin nhắn gửi RFA về phiên toà mở xử cha mình: “Mẹ tôi được phép đến dự phiên toà, tuy nhiên, mẹ tôi chỉ được quan sát phiên toà qua màn hình ở một phòng khác gần phòng xử án.”
21 Tháng Mười Một 20237:58 CH(Xem: 3376)
Tập đoàn năng lượng tái tạo Orsted do Chính phủ Đan Mạch chiếm cổ phần chi phối quyết định tạm dừng toàn bộ kế hoạch đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam. Mạng Vietnam Finance loan tin ngày 21/11 dẫn nguồn từ Orsted Việt Nam về kế hoạch không nộp lại hồ sơ xin chấp thuận các công tác khảo sát đánh giá tài nguyên biển cho Bộ Tài nguyên- Môi trường Việt Nam; cũng như sẽ không tiến hành bất cứ hoạt động phát triển nào cho các dự án điện gió ngoài khơi chung của hai bên. Orsted sẽ không gia hạn biên bản ghi nhớ với đối tác Việt Nam.
17 Tháng Mười Một 20239:37 CH(Xem: 3830)
“Chúng tôi tổ chức biểu tình để phản đối sự hiện diện của ông Võ Văn Thưởng với tư cách là Chủ tịch nước và phái đoàn của họ bởi vì chính họ là những kẻ cầm quyền đã đưa dân tộc đến chỗ n ghèo nàn, lạc hậu và nền đạo đức bị suy đồi. Họ đã nhốt khoảng 243 nhà bất đồng chính kiến và đấu tranh cho dân chủ, đã đẩy những nhà đấu tranh kiên cường này đến chỗ suy sụp tinh thần, dân oan tìm kiếm câu trả lời của bên chính phủ cộng sản đã cướp đoạt đất đai, cũng như các hình thức tra tấn và bắt bớ người dân với những tội rất bất công.”
14 Tháng Mười Một 20239:21 CH(Xem: 4000)
Là người tranh đấu cho một Việt Nam tự do, dân chủ và nhân quyền, tất nhiên tôi rất mong muốn những bài viết của mình đến với bạn đọc trong nước. Nhưng: Tôi hoàn toàn không đồng ý cách sử dụng những bài viết của tôi hoặc các tác giả tranh đấu khác để đánh bóng tên tuổi (trường hợp các Youtuber) hoặc kiếm tiền, hoặc xin tài trợ. Bởi một lẽ bất hợp lý là chúng tôi tranh đấu, viết bài, trả phí trang tin nhưng hoạt động vô vụ lợi thì những ai sử dụng bài viết của tôi để kiếm tiền là một việc làm không lương thiện.
10 Tháng Mười Một 20238:55 CH(Xem: 5916)
Riêng Đài ĐLSN thì khi sử dụng trái phép bài viết của tôi đều không hề đăng nguồn từ đâu, do đó họ đã đánh lận con đen để khác giả của họ cứ ngỡ rằng những bài viết của tôi là viết cho họ. Đó là hành vi không lương thiện. Không phải cứ khoác cái danh xưng tranh đấu là có quyền tự tiện đánh cắp sản phẩm của người khác để kêu gọi quảng cáo, tài trợ, bởi vì chưa thành công mà đã như thế thì khi có chính quyền trong tay thì có lẽ họ sẽ xây dựng nên một đất nước vô pháp không thua kém gì cộng sản.
13 Tháng Mười 20238:40 CH(Xem: 8892)
FIDH và VCHR từ Pháp đưa ra trong văn bản đệ trình mọi chi tiết về việc Việt Nam không thực hiện những khuyến nghị chính yếu mà Hà Nội chấp nhận tại kỳ UPR hồi năm 2019. Đó là những vi phạm thuộc các lĩnh vực bảo vệ nhân quyền, xã hội dân sự; phê chuẩn một số thỏa ước quốc tế nhân quyền; xử án công bằng và tư pháp; án tử hình; bảo vệ quyền tự do biểu đạt (gồm cả trên mạng); quyền tự do hội họp ôn hòa, quyền lập hội, và quyền tự do tín ngưỡng- tôn giáo. Tài liệu của PEN cũng nêu ra những vi phạm quyền tự do biểu đạt, quyền văn hóa, quyền riêng tư, quy trình tố tụng, và tình trạng bắt giữ tùy tiện.
10 Tháng Mười 20239:00 CH(Xem: 7081)
Những người bị phía Việt Nam hack bao gồm Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ - Dân biểu Michael McCaul, Thượng nghị sĩ Chris Murphy – thành viên của Ủy ban Đối ngoại và chủ tịch tiểu ban về Trung Đông. Ngoài ra còn có các chuyên gia về Châu Á tại các trung tâm tư vấn ở Washington bao gồm CSIS và các nhà báo của CNN bao gồm Jim Scuitoo cùng hai phóng viên thường trú ở Châu Á. Cuộc tấn công được thực hiện vào khi Mỹ và Việt Nam đang đàm phán nâng cấp quan hệ từ Đối tác toàn diện lên Đối tác chiến lược toàn diện. Hai nước vừa ký kết thỏa thuận nâng cấp này nhân chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Joe Biden đến Việt Nam...
16 Tháng Ba 2024
Thực tế, trái lại, cho thấy mọi cuộc cách mạng dù tiến bộ và tích cực đến đâu, đều có khuyết điểm và cần phải tu chính thêm. Hơn nữa có những cuộc cách mạng không những hoàn toàn vắng bóng những yếu tố tích cực, mà còn mang lại tại họa cho dân tộc xuyên qua nhiều thế hệ. Điển hình là các cuộc cách mạng Cộng Sản và Hồi Giáo cực đoan mà chúng ta sẽ phân tách trong bài này. Chúng ta cũng sẽ phân tách tầm mức quan trọng chiến lược của yếu tố viễn kiến trong nhận thức của những người lãnh đạo. Yếu tố viễn kiến giữ một vai trò tối quan trọng, giúp chúng ta phân biệt giữa một cuộc cách mạng có tính tiến bộ và một cuộc cách mạng mang tính phản tiến bộ, gây tai họa cho một dân tộc và đôi khi cả nhân lọai.
13 Tháng Ba 2024
Bà Đinh Thảo, một nhà hoạt động nhân quyền và cũng là nghiên cứu sinh ngành khoa học chính trị, hiện đang ở tại Hoa Kỳ, nói: “Tình hình dân quyền năm nay rất ảm đạm. Có thể nói từ năm 2018, xu hướng nhân quyền ở Việt Nam đã đổi chiều đi xuống và cứ thế tệ dần. Đến năm 2023 có thể nói là tồi tệ nhất trong suốt cả một chuỗi dài mấy năm qua.” (RFA, đài Á Châu Tự do, ngày 2023.12.22 Người dân Việt Nam cũng không được quyền ra báo, lập hội, hội họp và lập đảng chính trị đối lập như quy định trong Điều 25 Hiến pháp 2013. Điều này viết: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
12 Tháng Ba 2024
Kính mời bạn đọc xem video clip của nhà báo - bình luận gia Ngô Nhân Dụng và cô Thu Hà Nguyễn - cựu Phó Thị Trưởng TP Garden Grove về kinh tế VN cs hôm nay, những lý do nào mà ngành xuất khẩu của VN gặp phải, và lý do chính, quan trọng nhất là bởi vì lũ sâu dân, mọt nước chúng nó đều là đảng viên, phải có bôi trơn, tham nhũng thì bọn chúng nó mới chịu làm.
09 Tháng Ba 2024
Bài báo của Học viện Chính trị khu vực I cũng không nêu danh tính các nhà đầu tư bước ngoài đã lợi dụng Doanh nghiệp Việt Nam để chen chân vào các vị trí chiến lược quốc phòng, nhưng với mục đích gì và cho ai? Theo quan điểm được nêu trong Tạp chí Cộng sản thì Việt Nam vẫn phải đối phó với “diễn biến hòa bình”, tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Trong nhiều năm, nhóm chữ “diễn biến hòa bình” được đảng CSVN sử dụng để chỉ “các thế lực thù địch” do Hoa Kỳ lãnh đạo nhằm thực hiện âm mưu thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam. Nhưng từ giữa nhiệm kỳ khóa VII (1991-1996), Đảng đã chỉ ra 4 nguy cơ đối với ...
09 Tháng Ba 2024
Thật là ngây thơ khi tin rằng Trump sẽ đánh Tầu giúp Việt Nam trong khi Trump từ chối viện trợ cho Ukraine chống Nga xâm lăng. Trump chi biết có tiền và gái. Về chính trị, Trump chủ trương “Nước Mỹ Trước Hết” (America First), “Chủ Nghĩa Dân Tộc Thiên Chúa Giáo Da Trắng” (White Christian Nationalism), lo chuyện nội bộ, rút nước Mỹ ra khỏi Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty Organization – NATO), mang quân đội trở về Mỹ, không can thiệp vào chuyện thế giới, phục hồi chủ nghĩa không can thiệp (non-intervention) hay còn gọi là chủ nghĩa biệt lập (isolationism) vào thế kỷ XVIII và XIX và thời kỳ tiền Đệ Nhị Thế Chiến.
02 Tháng Ba 2024
Riêng đảng CSVN thì còn cho nhân dân ăn bánh vẽ để đỡ đói. Chẳng hạn, tuy hàng triệu dân nghèo rớt mồng tơi, bệnh hoạn, không cơm ăn áo mặc, hàng triệu trẻ em rách rưới không trường học, không đủ mì tôm sống còn mỗi ngày, nhưng điều 3 Hiến Pháp 2013 quy định một cách ngạo nghễ theo tinh thần TBT Nguyễn Phú Trọng: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
29 Tháng Hai 2024
Sau khi Liên xô sụp đổ nhiều người tưởng rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ cáo chung trên toàn thế giới. Nhưng không phải vậy, loại giống mới “cộng sản” đã tìm được một mảnh đất phù hợp để phát triển, đó là Trung Quốc với hệ thống tư tưởng đức trị và pháp Trị chuyên chế đã ăn sâu hàng ngàn năm, tiếp tục bắt rễ và sinh sôi để xây dựng một xã hội “đặc sắc Trung Quốc”. Đức trị ở đây là gắn liền với Nho giáo mà đứng đầu là Khổng Tử và Pháp trị là nói đến thuật cai trị theo trường phái Pháp gia trong lịch sử cổ đại của Trung Quốc mà đứng đầu là Hàn Phi.
28 Tháng Hai 2024
Tuổi gì không biết nhưng trong gần 4 năm qua sau khi Tổng Thống Biden nhậm chức, sự ủng hộ ông Trump một cách cuồng nhiệt của người Việt không suy giảm bao nhiêu. Căn cứ vào những bài viết, những ý kiến trên Facebook, Twitter..., cho thấy người VN tiếp tục ủng hộ ông Trump mạnh mẽ - sự ủng hộ bất chấp lẽ phải, đạo đức, sự thật về con người, bản chất của Trump - bị bóc mẻ qua những phiên tòa đã kết thúc và đang diễn ra, hơn 10 cuốn sách, hồi ký của các cộng sự viên thân tín nhất trong nội các Trump xuất bản... - mong cho ông được trở lại Tòa Bạch Ốc thêm 4 năm nữa. Để làm gì?
27 Tháng Hai 2024
Bốn “kiên định” này không mới. Tất cả chỉ là bản cũ sao lại từ thời kỳ được gọi là “đổi mới”, bắt đấu từ năm 1986. Vì vậy, sau 38 năm đuổi theo cái bóng không tưởng là “xã hội chủ nghĩa”, ông Nguyễn Phú Trọng phải gượng ép giải thích với nhân dân rằng: “ Vì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là lâu dài và chưa có tiền lệ, còn rất nhiều khó khăn, thách thức.” Nhóm chữ “chưa có tiền lệ” được đảng giải thích với quyết định “bỏ qua chế độ Tư bản” để “quá độ lên Xã hội chủ nghĩa”. Nhưng không ai trong đảng định hình được “mặt mũi” của xã hội này như thế nào. Vì vậy đảng đã “ấm ớ hội tề” khi tung ra chủ trương làm “kinh tế thị trường...
26 Tháng Hai 2024
8. Họ cố tình gài trong HP những khái niệm xung đột lẫn nhau, chẳng hạn một mặt khắc ghi nhân quyền, mặt khác cướp đi nhân quyền; hoặc một mặt thì hiến định hóa địa phương phân quyền và mặt khác lại hiến định hóa khái niệm “tập trung dân chủ” để hủy diệt “địa phương phân quyền”. 9. Họ thường xuyên đánh cắp và sau đó đánh tráo khái niệm: pháp trị biến thành pháp chế xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường thành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ cộng hòa trở thành cộng hòa xã hội chủ nghĩa, tổ quốc trở thành tổ quốc xã hội chủ nghĩa, quân đội trung thành với tổ quốc trở thành trung thành với cả đảng CSVN.