Mạch Sống Media
LTS: Sau nghiên cứu cho Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế (Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ, tức USCIRF) về các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam do nhà nước Việt Nam lập ra hay điều khiển, họ tôi đang lập hồ sơ về 6 tăng sĩ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam là Thích Chân Quang, Thích Nhật Từ, Thích Minh Thiện, Thích Đức Thiện, Thích Thiện Thuận, và Thích Trúc Thái Minh.
Đây là những tăng sĩ đã sử dụng vị trí của mình trong GHPGVN để phục vụ lợi ích của Đảng và Nhà nước và/hoặc trục lợi cá nhân, làm biến chất Phật giáo từ bên trong, và tấn công, chà đạp tôn giáo khác hoặc quyền tự tôn giáo của người khác.
Xin vị trí gửi thông tin tới DeAn-PhatGiao@vncrp.org . Mọi nguồn thông tin đều được bảo mật.
Sau đây, chúng tôi xin phép đăng lại một bài viết của Việt Nam Thời báo về ông Thích Nhật Từ.
Thượng tọa Thích Nhật Từ (tên khai sinh Trần Ngọc Thảo) là Phó trưởng ban Ban Trị sự trưởng ban Phật giáo Quốc tế Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN, Phó Viện trưởng thường trực Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Viện trưởng – Tổng thư viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Phó Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương GHPGVN. Với các chức năng lớn như vậy, lời nói và hành động của ông sẽ có tác động rất lớn đến Phật Tử dù sai sót. Trong một video phỏng vấn, ông thú vị càng ngày càng có nhiều người ghét ông, công kích ông 'bởi những video cắt cắt'. Bài viết này hoàn toàn cơ bản trên các video trên trang Đạo Phật Ngày Nay của ông, mà ông khỏe không cắt cắt.
Ông Thích Nhật Từ trong các bài phỏng vấn hay trong những lần thuyết giảng, thường bổ ý dưỡng đi nhiều nước, viết nhiều sách và có những cấp “tiến sĩ”, “tiến sĩ danh dự”. Một trong bằng “tiến sĩ danh dự” của ông làm trường đại học Apollos cấp. Trường Đại học này đang gặp phải những vấn đề nghiêm trọng liên quan đến chất lượng giáo dục và tặng thủ công các tiêu chuẩn của DEAC (Ủy ban Kiểm định Giáo dục Từ xa). Thư của DEAC gửi Apollos (1) .
Kể cũng thú vị khi nhiều tu sĩ, tuổi lạp đã là Hòa Thượng chứng tuổi đời cao hơn nhiều, được nhận bằng Giáo sư, Tiến sĩ danh dự từ một trường chuyên ngành Quản trị Kinh doanh, Quản lý Doanh nghiệp và Công nghệ Thông tin ngày 19/6/2016 tại Học Viện Hành Chính Quốc Gia TP. HCM.
Qua rất nhiều video lấy trên trang mạng của ông Thích Nhật Từ quản lý, mà ông ta bảo không cắt xén, cho thấy một Thích Nhật Từ thân mật thông minh, thiếu hiểu biết nhưng đầy lươn lẹo. Dẫn chứng một video dài hơn 2 giờ đồng Nhật Từ giảng dạy về “Chiến Lược Cải Đạo Của Thiên Chúa Và Tin Lành”, ông Thích Nhật Từ (2) tự phơi bày con người thật của mình.
Ông Từ nói:” Chủ tài [của GH công giáo] trước cộng đồng Vatican ll, tức là trước 1963, là con đường truyền giáo [theo cách] triệt thực văn hóa, loại trừ văn hóa, xung đột văn hóa, tiêu diệt văn hóa, biến quốc gia gia nghèo thành công cụ truyền bá thiên quốc trên nước thiên đường dẫn đến chủ nghĩa bán nước, chủ nghĩa rắn rắn gà nhà (phút 36.)
Lời nói trước lớp học bao gồm các vị trí tu sĩ già của Thích Nhật Từ về cách tiếp cận giáo dục của Giáo hội Công giáo trước Công đồng Vatican II khiến ông bị chỉ trích về kiến thức và chân thực.
Công đồng Vatican I (1869-1870) chủ yếu nhấn mạnh giáo lý về quyền tối thượng của Giáo hoàng và tính không sai lầm của ngài khi công bố các vấn đề tín lý, mà không hề đưa ra chủ đề về việc thay thế hay Tiêu diệt văn hóa của các dân tộc.
Trước Công đồng Vatican II (diễn ra từ năm 1962 đến năm 1965), công việc truyền giáo của Giáo hội Công giáo ở nhiều vùng khác nhau đôi khi thực tế dẫn đến những xung đột và thay đổi văn hóa đáng kể. Giai đoạn này chứng kiến một số nhà truyền giáo thiển cận, Ý tưởng rằng văn minh phương Tây có thể làm cho đời sống tín đồ, kể cả vật chất lẫn tinh thần, tốt hơn nên họ đã cố gắng áp đặt các chuẩn mực văn hóa phương Tây lên người dân địa phương.
Dù những lỗi-lầm-với-ý hướng-tốt thì điều này có thể được xem là gây xung đột văn hóa trong một bộ phận dân chúng. Ngày nay, một số cha xứ cũng làm 'con chiên' bất mãn vì sự cựu, lạc hậu hay áp đặt giáo dân của họ. Đó không phải là tài khoản của Giáo hội Công giáo, hay của Giáo hoàng nào cả.
Điều quan trọng là ông Nhật Từ phải tiếp nhận sự phức tạp của các tương tác lịch sử. Không phải mọi nỗ lực truyền giáo đều gây xung đột hay xâm thực văn hóa bản địa. Vô số chương trình truyền giáo có nỗ lực hướng tới mục tiêu cung cấp giáo dục, chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ xã hội vẫn giữ được trung thành và các vấn đề cao, tạo ra nền văn hóa hóa bản địa phong phú.
Những môn đệ đầu tiên của Giê-Su khi đi rao giảng về Ngài, 11 trong số 12 môn đồ, đều chịu đau khổ, bị giết chết để mời người ta về với Chúa Giê-su Sống-lại. Họ không ép buộc, dụ dụ, cũng không ác hại hay xóa bỏ văn hóa bản địa… Số bộ phận người theo bước chân truyền giáo của họ sau này cũng không thay đổi, nhiều người bị hành hạ, xua đuổi và không ít bị giết -Tử vì Đạo-
Chữ Mông (H'mong) Romanized Popular Alphabet (RPA) được phát minh và phát triển giữa năm 1951 và 1953 nhờ một nhóm truyền giáo và các nhà lãnh đạo H'Mong tại Lào. Đây là hệ chữ viết phổ biến nhất cho ngôn ngữ H'Mong, đặc biệt ở phương Tây và Đông Nam Á (3). Việc làm các nhà giáo dục phát minh ra chữ viết H'Mong đã đóng góp phần rất lớn vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa hóa của người H'Mong. Chữ Việt mà Trần Ngọc Thảo học từ bé để có kiến thức như ngày nay dùng xiển dương Phật Pháp theo cách của ông cũng từ công lao của các giáo sĩ Phương Tây.
Công đồng Vatican II (1962-1965) đã đặc biệt khuyến khích tôn trọng và hội nhập văn hóa. Văn kiện Nostra Aetate và Ad Gentes của Công đồng Vatican II về truyền thông khẳng định rằng Công giáo phải tôn giáo quan trọng, đồng hành động với các địa chỉ giá trị và không được áp dụng hay tiêu diệt nền văn hóa nào. Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Tòa Thánh Vatican được thiết lập và mỗi tổng số phận, giáo phận trên thế giới đều có các ủy ban này.
Thay đổi rất quan trọng là tất cả các nghi lễ đều phải sử dụng ngôn ngữ bản địa, thích ứng và nhập liệu vào các nền văn hóa địa phương. Điều này đã dẫn đến giáo dục mở rộng đối thoại và hợp tác với các nền văn hóa và tôn giáo khác, đồng thời thúc đẩy công lý, hòa bình và phát triển.
Trước đây, việc truyền giáo đôi khi được gắn với các chính sách thuộc địa, đặc biệt ở các quốc gia mà thực dân châu Âu có vai trò lớn. Tuy nhiên, đây là hành động của các chính quyền thực dân, không phản ánh tài liệu chủ yếu của Giáo hội.
Ông Nhật Từ cho rằng Công giáo có tài tiêu văn hóa hay cung cấp “chủ nghĩa bán nước” là không chính xác, bất công và thiển cận. Lời khuyên của Thích Nhật Từ với các tu sĩ lớn tuổi ngồi dưới rõ ràng và thiếu công bằng với nhiều cá nhân cũng như nỗ lực trong sứ mệnh truyền đạo của Tin lành và Công giáo, những người đã hoạt động cực, tôn trọng và đồng hành với địa phương hóa văn bản nền.
Nhận thức của ông Từ có thể được coi là một khái niệm hóa quá trình (overgeneralization). Do kiến trúc cơ chế giới hạn, dựa vào một, hai tình huống được đọc ở đâu, ông ấy tự xây dựng các phổ biến không có tính học học. Nhận thức được kiểu này xảy ra với một số người có đầu kính không bình thường, thích “vơ đũa cả nắm”.
Phút 39, ông Nhật Từ nói [để truyền đạo thành công] “các nhà truyền giáo không từ chối bất cứ âm thủ thủ đoạn chí là phi pháp, phi đạo đức và tiêu diệt văn hóa , miễn là rút thật nhiều linh hồn về cho Chúa”. Đây là tuyên bố hồ đồ, khiêu khích, dối trá, xúi dục, gây hiểu sâu, kích động, gây hiềm thù dân tộc và các tôn giáo đúng theo luận điệu của nhóm đặc tình cộng sản, Giao Điểm, Sách ngứa, chuyên đả phá Thiên Chúa giáo và chia Sơn tôn giáo mà ông Từ thường nhắc đến làm bằng chứng.
Bất cứ điều gì tôn giáo, kể cả Phật giáo luôn kèm theo nguyên tắc đạo đức rõ ràng và nhất là trong ác tâm tôn trọng văn hóa địa phương, nhập gia tùy tục, trong các hoạt động truyền giáo, nếu không muốn thất bại ngay từ bước chân vào điểm truyền giáo.
Phút 45:30. Ông Thích Nhật Từ nói “[số người vào đạo tăng lên do thủ đoạn] mẫu đạo, mút bức hôn nhân, hỗ trợ kinh tế, tư vấn nghề nghiệp, giảng dạy tiếng Anh và nhiều hoạt động khác.”
Ông Từ có lẽ không tường tận các bối cảnh văn hóa, lịch sử, địa lý trong các thời kỳ truyền giáo của cả Tin lành lẫn Công giáo và cố ý mũi nhọn, gây hiểu sai về các hoạt động đi liền với việc giáo dục . Việc chuyển sang Thiên Chúa giáo có thể làm nhiều lý do khác nhau, và không phải lúc nào cũng là làm “thủ đoạn” hoặc “dụ đạo” như câu trên đề cập.
Trong lịch sử, và kể cả những điều cho đến nay, đúng là có những thời kỳ và hoàn cảnh mà việc truyền đạo đi kèm với các phương pháp như hỗ trợ kinh tế, giáo dục, tư vấn nghề nghiệp và nhiều hoạt động xã hội khác. Các nhà truyền giáo đã mang đến những dịch vụ này nhằm mục đích tiếp cận cộng đồng và giúp đỡ họ. Tuy nhiên, việc nói rằng đây là “thủ đoạn” hoặc có tính “cưỡng bức” là sự vu vơ. Người theo đạo có thể chọn cơ sở trên niềm tin cá nhân và sự hấp dẫn của hệ giá trị Thiên Chúa giáo.
Tất nhiên, không có phủ phủ nào nhận thấy một số quốc gia thực dân phương Tây có khả năng kết hợp truyền giáo với các chính sách bành vũ văn hóa, tạo ra cho người dân bản địa cảm thấy được áp lực phải chuyển đổi tôn giáo. Tuy nhiên, đây là trường hợp cụ thể trong lịch sử và không phải là công thức phổ biến hoặc là bản chất của tất cả các hoạt động truyền giáo Thiên Chúa giáo.
Ở Việt Nam nói riêng và nhiều quốc gia khác, việc truyền giáo đã bắt đầu từ hàng trăm năm trước khi có sự hiện diện quân sự và giá trị chính của các cường quốc phương Tây. Các giáo sĩ phương tây đến điểm truyền giáo với hai bàn tay trắng chỉ với tình yêu thương và niềm tin say để “mang các linh hồn về cho Chúa”. Họ đến với tinh thần yêu thương, niềm tin mạnh mẽ, và cam kết lan tỏa thông điệp Kitô giáo. Các giáo sĩ học tiếng địa phương, sống trong điều kiện thiếu cơ sở và thường gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí chí phải đối mặt với sự nghi ngờ và kháng cự từ chính quyền sở hữu.
Thời kỳ khởi đầu truyền đạo ở Việt Nam, nhiều người kể cả giới thượng lưu, thương gia, trí thức, quan lại và các vương giả theo đạo tự nguyện, vì hấp thụ những giá trị nhân ái và giáo lý của Thiên Chúa văn. Những trí thức như Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký… đã làm biết lợi bao nhiêu cho quốc gia nhờ hấp thụ văn minh Ki-Tô giáo.
Các giáo sĩ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển chữ quốc ngữ, xây dựng trường học, bệnh viện và thực hiện các hoạt động xã hội. Những đóng góp đó để lại một di sản đáng kể trong văn hóa và xã hội Việt Nam.
Vì vậy, việc khẳng định một cách chung như câu trên không phản ánh đầy đủ và công bằng cách sử dụng đa dạng trong phương thức và động cơ truyền giáo của Thiên Chúa giáo.
(còn tiếp)
_______________
Tham khảo
(1) 110723_apollos_sco_letter.pdf
(2) https://www.youtube.com/watch?v=OKhBFgLq7uQ&t=3121s . Video này đã được download xuống trên trang Chùa Giác Ngộ. http://chuagiacngo.com/phap-thoai-thang-07-nam-2012/chien-luoc-cai-dao-cua-thien-chua-va-tin-lanh-phan-2-25072012-thich